ngày chiều chân vụng đi bên gập ghềnh thay nhau làm gậy chống vào chênh vênh nguyenducdung58.blogspot.com
Thứ Ba, 29 tháng 12, 2015
Thứ Hai, 28 tháng 12, 2015
Thứ Tư, 23 tháng 12, 2015
Thứ Năm, 10 tháng 12, 2015
Thứ Bảy, 5 tháng 12, 2015
Thứ Sáu, 4 tháng 12, 2015
Chủ Nhật, 29 tháng 11, 2015
Thứ Bảy, 28 tháng 11, 2015
Thứ Tư, 18 tháng 3, 2015
Xin xăm
Xin xăm
Em ơi cành lá bao giờ
Chưa tin chồi nụ đã ngờ ngợ
hoa
Anh cầm vận hạn bôn ba
Thử gieo lấy quẻ người ta với
mình
Bỏ bùa mấy ngón tay xinh
Sớm xuân phát lộc sân đình
cho ai
Tam Kỳ 14/12/2104
Nguyễn Đức Dũng
Rón rén
Rón rén
“Tặng: Văn
Ngọc Quang”
Rón rén cầm lòng thơ xuống
phố
định bụng
thật thà mua Xuân
Rón rén cầm một chiều ba mươi
vàng rất là môi cúc
kìa em!
nhóng nhánh hoa cười
Sao lại nỡ cầm vào tay rón
rén
trái tim anh rất mực dại khờ
Chiều ba mươi cầm mình xuống
phố
lấn quấn sắc hương
rón
rén…
cầm về
ánh mắt
Tam Kỳ - Chiều 30/Chạp Giáp Ngọ
Nguyễn Đức Dũng
Trước giao thừa Con Dê
Trước giao thừa Con Dê
“Tặng: Văn
Ngọc Quang”
Quen lọ mọ quy phạm quy trình
lớp lang trật tự
Không được như người ta nhanh
nhạy rẹt đùng
Đã phần phước em ơi xin đừng
làm anh quíu
Tược nứt rồi! Rù rài thủng
thẳng mình – Xuân
Tam Kỳ - Chiều 30/Chạp Giáp Ngọ
Nguyễn Đức Dũng
“Sầu Dã Nhân”
“Sầu Dã Nhân”
Cho đến tận bây giờ, tôi vẫn không hề
biết được là anh có viết lách vẽ vời hoặc dính dáng nào về các hoạt động VHNT
gì không. Chỉ biết anh có cái tên quá độc đáo, bởi sau cái đêm mở phiên tòa lưu
động hết sức đặc biệt và sặc mùi khủng bố ấy thì chúng tôi mất hút tăm hơi của
anh, như thể anh chưa từng xuất hiện trên cõi đời này…
Thời trước, hầu như đàn ông con trai nào
lanh lẹ, có chút ít tài vặt, thì thể nào cũng chọn cho mình hoặc ban bè gặp dịp
gán một cái tên hiệu ngoài tên thật do cha mẹ đặt cho và ghi vào khai sinh, hộ
tich. Nó như một thứ bút danh, bút hiệu, hay đại để như một “Nhản hiệu cầu
chứng” thể hiện cho đẳng cấp, cá tính, hoặc sở trường sở đoản nào đó. Nói
chung, một kiểu thời thượng giữa bạn bè cùng hội cùng thuyền với nhau. Lắm lúc,
người ta sống dở chết dở với cái tên hết sức ngớ ngẩn, buồn cười, vô thưởng vô
phạt. Nó chẳng hề nói lên điều gì ngoài một ý đơn giản là để phân biệt cho khỏi
nhầm lẫn. Ngờ đâu vật đổi sao dời, cũng bởi cái tên hiệu khác người ấy mà nó
làm cho anh mắc tội nhiều hơn. Một thứ tội tưởng tượng, hư cấu và suy diễn của
kẻ có chức quyền, nắm trong tay sinh sát vận mệnh những người dưới ngựa.
Tiếng kẻng báo động dồn dập chát chúa dựng
đứng hơn ngàn con người trong khuya mưa tầm tã. Chưa kịp bật ngồi dậy để chạy
ra sân tập hợp đội hình sẵn sàng chiến đấu. Cái lệ ở Xí nghiệp Đá Chu Lai này
nó vậy, dầu chẳng biết chiến đấu để chống lại thế lực thù địch nào và với hai
bàn tay không…Chúng tôi nghe tiếng lên đạn lốp rốp khắp quanh trại, những ánh
đèn pin quét loang loáng bao vây tứ phía, súng thọc vào các tấm cửa sổ bằng cót
trên đầu giường. Một giọng đanh vang lên trong đêm mưa: “ Tất cả nằm im! Ai ở
đâu nguyên đấy, cấm ồn ào di chuyển!” Chưa biết chuyện gì đang xảy ra, bởi nó
trái với thói thường đã được huấn luyện thành nếp, thành kỷ cương, thứ lề luật
thời chiến được áp dụng nghiêm ngặt cho toàn công nhân xí nghiệp. Những tiếng
chân rậm rịch nhanh chóng cơ động rồi xông vào trại chúng tôi, chốt hai cái
bóng đen ngay cửa ra vào độc đạo, ghìm súng chỉa vào trong những chiếc giường
chúng tôi đang nằm run rẩy và hốt hoảng Như đã được tập dược thuần thục trước
rồi, ba người súng ống sẵn sàng nhanh chóng từ bên ngoài xộc vào giữa trại dõng
dạc: “Trung sĩ ngụy quân Cao Xuân Toàn! Mày đã bị bắt! Thu dọn đồ đạc nhanh
lên!”. Họ bước đến giật mùng, anh Toàn vừa mở miệng toan hỏi đã bị mắng át: ”Im
ngay! Cấm nói!” Chưa hết bàng hoàng nhưng như biết phận, anh Toàn ngoan ngoãn
thu dọn áo quần chăn màn gùi vào ba lô,
Một người xông tới trói quặt hai tay anh ra sau rồi thúc súng đưa đi.
Mọi việc diễn ra trong chưa đầy 5 phút, chưa đủ thoát cơn ngái ngủ của mọi
người, chưa đủ cho những câu hỏi lởn vởn trong đầu mà không ai dám buột miệng.
“Hết báo động! im lặng ngủ để mai làm việc, cấm làm mất trật tự.” Lại lệnh
miệng của ai đó vang lên ngay cửa ra vào. Không gian chìm vào đêm mưa, tuy vậy,
từng tiếng thở dài và trở mình chung quanh cho thấy rằng gần năm mươi con người
trong trại chúng tôi không ai có thể ngủ được nữa. Chuyện gì xảy ra vậy? Rồi
còn ai sẽ bị bắt nữa không? Và tại sao? Một vài đóm lửa thuốc lá lén lút đỏ
lên, rồi thêm vài đóm nữa, và rồi cả trại chúng tôi đều nhẹ nhàng đốt thuốc
trong đêm vắng, hút chùng hút vội, những điếu thuốc cháy câm lập lòe thay cho
nỗi phân vân và nghi ngại. Không biết những trại chung quanh như thế nào chứ
chúng tôi lòng đầy lên một sự sợ sệt không tên. Chuyện gì vậy? Biến cố khác
thường chưa từng xảy ra từ khi bước chân vào công trường. Hơn hai năm qua rồi,
cuộc sống đã dần đi vào nề nếp. Cái nề nếp có thước có tấc cho mọi sinh hoạt
của con người trong tập thể này. Người ta cũng phải quen dần với thứ bình yên
giả tạo ấy. Chiến tranh đã ở vào thì quá khứ, bom đạn đã im tiếng trên chiến
trường nên không còn là nỗi lo âu thường trực, còn chăng trong riêng mỗi lòng
người cất giấu cái ngột ngạt về đời sống tinh thần, ngột ngạt mà không dám tỏ
bày, cứ tự dặn lòng chịu đựng thứ quy cũ khép kín trong giới hạn của xí nghiệp
và chỉ biết có một khung trời xí nghiệp, chẳng ai dám tơ vương bên ngoài kia
con người sống như thế nào, Một thứ hàng rào vô hình được dựng lên bao quanh
khoảng đất trời ấy, bãi đá và doanh trại, Con người là sinh vật dễ thoả hiệp
nhất trước sự đe dọa tập thể, ai cũng chung cùng một điều kiện sống như nhau, triệt
tiêu tinh thần phản kháng, kêu đòi những nguyên tắc sống, một thái độ cầu an
chấp chịu những trói buộc hết sức vô lý bằng những luận điệu giải thích có lý,
rồi ra ai cũng thấy rằng nó, cái thế giới thu nhỏ ấy nó đúng là có lý, cái lý
của kẻ mạnh, có quyền sinh quyền sát luôn luôn đúng. Chiến thắng đã biện minh
cho tất cả.
Sau khi được nhập về Xí nghiệp Đá Chu
Lai, trừ một số không biết chuyển đi đâu, còn lại cả cũ cả mới hơn ngàn rưỡi
con người được phiên chế thành 4 đội sản xuất. Các dãy trại làm bằng tranh tre
và cót ép bố trí xây dựng sát chân núi đá Chu Lai, trên một diện tích rộng cả
chục hec ta, nhà của Ban chỉ huy Xí Nghiệp ở giữa nhìn ra một khoảng sân rộng,
các đơn vị ở chung quanh, nhà ăn nhà bếp được xây dựng thông thoáng sạch đẹp,
có vườn hoa ở bên hông của trại xí nghiệp. Cả một khu vực ấy nằm sát đường QL1,
bên kia đường là Căn cứ Quân sự Chu Lai một thời sôi động, giờ thành khu quân
sự của bộ đội. Cả một vùng đồng không mông quạnh nên gió biển thổi về quanh năm
suốt tháng, mùa nắng thì còn đỡ chứ vào mùa đông mưa gió thì phải biết
Sữa Ông Thọ
Sữa Ông Thọ
Đầu năm 1976 xảy ra một sự kiện chấn động
lòng người, chấn động bởi nó chưa quen với cách nghĩ, cách sống và đối đãi giữa
con người với nhau. Chuyện tương tự thì ai cũng từng nghe kể hoặc xem qua các
vở kịch, cải lương trên sân khấu, hoặc giã xảy ra đâu chừng cả trăm năm trước,
thời thực dân phong kiến. Nó mạ lỵ sỉ nhục con người, nó đánh tan nát vào chút
lòng tự trọng hiếm hoi và thương tổn, nó làm cho kẻ bị hành hạ chỉ muốn chui
xuống đất để biến mất khỏi thế gian này, không để lại chút tỳ vết. Đó là chuyện
nghe kể lúc trà dư tửu hậu của những ai vì lý do nào đó muốn dọa dẫm người khác
chứ ngoài đời sống thì tuyệt nhiên chẳng một kẻ nào lại nỡ đang tâm hành xử với
đồng loại như vậy vì nó quá độc địa và thất nhân tâm.
Chạng vạng tối hôm trước, cả khu trại chợt
nghe những loạt súng AK bắn vào hướng núi đá, tiếng vọng dội lại rồi ngân dài
men theo sườn núi. Hình như ở hướng bắc, hướng của Xí nghiệp Đá Chu Lai.
Gọi hướng bắc là để phân biệt với đơn vị
chúng tôi từ Mỏ Đá Hòn Giang chuyển vào, đóng quân tại sát chân núi gần Dốc
Sõi. Khu vực địa đầu của Quảng Nam
– Đà Nẵng giáp giới với tỉnh Quảng Ngãi. Từ đây, theo đường QL I ngược ra
khoảng 2 cây số là đến Xí nghiệp Đá Chu Lai. Đã đóng quân cố định từ khi mới
thành lập, có lẽ tiếp quản mỏ đá của chế độ trước để lại.
Tuy mang tiếng sát nhập nhưng toàn bộ quân
số của Mỏ Đá Hòn Giang chuyển vào hơn ngàn con người được chỉ định khai thác đá
ở phía nam này một thời gian. Có lẽ nơi xí nghiệp chính chưa đủ bến bãi để tổ
chức sản xuất cho một lực lượng quá hùng hậu.
Đã từng là những công nhân sản xuất đá thủ
công giỏi nhất Công trường Đường Sắt Quảng Nam – Đà Nẵng. Từng được tổ chức
thành những đội thợ giỏi, tay nghề cao ở các hạng mục công việc để đưa đi phổ
biến, hướng dẫn, trao đổi kinh nghiệm cho các đơn vị khai thác đá trên toàn
tuyến từ đèo Hải Vân vào đến Quảng Ngãi. Thế nhưng đặt chân đến công trường
phía nam Chu Lai này, chúng tôi mới thật sự thấm đòn, mới biết cặn kẻ cái nghề
khai thác đá thủ công này nó gian khổ đến mức nào. Cả một sườn núi mênh mông
những đá là đá. Những khối đá mồ côi khổng lồ đen đúa chồng chất lổn nhổn trông
sướng con mắt. Khốn nạn thay, khi đục lỗ bắn mìn ra thì mới biết thế nào là trò
chơi khăm của thượng đế. Đá ở đây đặc biết khác lạ, không giống bất kỳ nơi nào.
Những vân đá kết cấu rằn rện vặn xoáy từng mảng
như da beo da cọp. Đập búa tạ vào như đập phải một nùi giẻ rách bện
cứng, tiếng dội bình bịch nghe lạnh cả người, không như tiếng dội chát chúa
giòn khô ở những loại đá mồ côi khác. “Đập đá xem sớ lấy vợ xem mông” là kinh
nghiệm truyền đời của người đi trước. Đá da cọp này mềm, dẽo và quấn lung tung
không theo sớ nhất định. Càng đập nó càng tơi vụn chỗ cạnh búa tiếp xúc với
điểm đập ở trên mặt tảng đá ra càng lúc càng sâu, cuối cùng nó đào thành một
cái phễu như cối giã tiêu ớt ở nhà thường dùng, chứ dứt khoát không chịu bể vỡ
như mong muốn. Họp, rút tỉa kinh nghiệm, tìm kiếm ý tưởng khắc phục khó khăn
trước mắt, chúng tôi xoay như chong chóng mà những tiếng dội bình bịch trơ trẽn
ấy cứ vang lên như thách thức trêu đùa. Gần tháng trời trần lưng với “Nó”,
nghĩa là những hòn đá da cọp ấy. Những ai đã từng bữa gốc mít già để lấy củi,
thì chúng tôi đập đá ở đây cũng thế, nghĩa là phải dùng cạnh búa đập gỡ ra từng
miếng nhỏ, cuối cùng chúng tôi cũng tìm được cách bắt nó phải trở thành đá hộc,
đá ba rồi đá 4x6 như yêu cầu. Đây là loại sản phẩm cuối cùng và cần thiết với
khối lượng khổng lồ để trải trên nền đường, trước khi người ta đặt tà vẹt rồi
liên kết đường ray lên phía bên trên. Trong điều kiện sản xuất cực kỳ khó khăn
ấy, chúng tôi thường xuyên bị Công trường và Xí nghiệp phê phán, khiển trách,
họp hành liên tục để mổ xẻ vấn đề, mà cái chính là những bài rao giảng tràng
giang đại hải về ý nghĩa của lao động, trách nhiệm của người thanh niên trong thời
đại mới. Năng suất lao động thấp là nguyên nhân của những đêm họp hành phê phán
ấy. Nếu ở Mỏ đá Hòn Giang trước kia, chúng tôi dễ dàng đạt nửa khối đá 4x6 trên
một công lao động bình quân, thì ở tại đây, dầu cố gắng đến hết cách chúng tôi
cũng chỉ nhúc nhích ở mức 0,2 m3 trên một ngày công lao động. Với đà này, tết
Ma Rốc cốc ken mới nói đến chuyện thông tàu ở khu gian phía nam của tỉnh. Cũng
có nghĩa việc thông tuyến đường sắt Bắc -Nam theo kế hoạch coi như phá sản.
Vì vậy mà họp, mà học tập liên tu bất tận, người ta nghĩ ra đủ mọi phương cách
để siết chặt kỷ cương, kỷ luật lao động nhằm tăng cái năng suất rùa bò và tội
nghiệp ấy. Rồi người ta sáng kiến phát động chiến dịch thi đua hết đợt này đến
đợt khác, chả có lễ lạt gì để phát động thi đua thì tìm ra cái để mà thi đua
như kiểu tự biên tự diễn của văn nghệ quần chúng. Người ta tính lại thời gian
làm việc ngoài bãi đá, 8 giờ là 8 giờ vàng ngọc làm ra của cải vật chất, họ
không tính thời gian đi và về, không tính luôn cả 15 phút giải lao giữa buổi làm
việc, mà cuối cùng họ cũng không tính luôn khoảng thời gian làm mìn để đánh đá.
Nghĩa là những hạng mục công việc ấy “xú vơ nia”, là lao động xã hội chủ nghĩa
vv và v.v…
Trong đợt sơ kết quý I năm 1976. Công
trường và Xí nghiệp chê trách phê phán CBCNV chúng tôi không tiếc lời, những
phân tích gay gắt đã được tuyên đọc. Năng suất lao động quá thấp phá vỡ kế
hoạch trên giao, nhưng quan trọng hơn là việc để “lỗ” đầu tư. Tức là thâm hụt
trầm trọng về vật liệu nổ định mức trên khối lượng sản phẩm. Theo định mức tiêu
hao vật liệu nổ trong khai thác đá công nghiệp thì cứ 01kg thuốc nổ TNT cộng 4
kíp nổ và 4m dây cháy chậm phải đạt được gần 03m3 đá sản phẩm. Nhưng đó là định
mức kỹ thuật cho điều kiện sản xuất tối ưu, có máy móc và thiết bị hỗ trợ, song
những ông cán bộ trên núi này về bất cần khoa học khoa hiếc gì hết, chỉ mệnh
lệnh sản xuất là cao nhất, phải được chấp hành và thực hiện vô điều kiện. Cứ
cái câu thần chú nửa vời “Biến không thành có biến khó thành dễ” ấy mà phán
xuống, làm không được thì trị, trị công nhân mà như trị tù. Để trừ vào khoản
vật liệu nổ thâm hụt đó, Xí nghiệp đã nghĩ ra được một sáng kiến vô tiền khoáng
hậu. Họ phát động một chiến dịch thi đua chỉ có ở thời trung cổ. “Tay không bắt giặc” là cái tên mà chúng tôi đặt cho cái
chiến dịch lạ lùng này vì tên chính thức của nó sờ sờ trên băng rôn nhưng chẳng
một ai thèm để mắt tới. Nó là một kiểu giải quyết nhất cử tam tứ tiện của Tàu.
Đó là thời gian phối kết hợp với rất nhiều ý nghĩa tốt đẹp của chiến dịch nhưng
thật sự là để trị cái tội làm đá thâm mìn của chúng tôi. Cứ đúng 3 giờ rưỡi
sáng. Khi tiếng kẻng dựng ngược toàn bộ công nhân cánh nam chúng tôi dậy, tất
cả phải nhanh chóng vệ sinh cá nhân trong vòng 10 phút rồi ra sân tập họp theo
đội hình từng tổ đội sản xuất. Nhắm hướng bắc một hai ba bốn một hai ba bốn cơ
động chạy ra, đây là bài tập thể dục kết hợp chuyển quân bắt buộc nằm trong
chiến dịch. Từ chỗ chúng tôi đến bãi đá của Xí nghiệp chính khoảng 2 cây số ấy
phải bảo đảm đúng thời gian hành quân không được chậm trễ và xộc xệch đội hình.
Điểm đến là một bãi đá rộng khoảng 5 héc ta nằm sát bên đường QLI, ở đó lổn
nhổn những viên đá to tròn trùng trục như những quả bóng khổng lồ. Đây là hậu
quả để lại sau gần hai năm khai thác của công nhân xí nghiệp Chu Lai. Do tay
nghề kém, họ không biết cách đập đá ra thành những viên đá hộc cỡ 25x30cm nên
đã đập ghè những cạnh nhỏ chung quanh khối đá, đến khi nó tròn cạnh hết lại là
họ chịu thua. Những khối đá tròn ấy nằm chồng chất chiếm một diện tích bãi quá
lớn, không có chỗ để tập kết đá thành phẩm. Nếu dùng mìn để sản xuất tận thu
thì tốn kém không biết bao nhiêu mà tính. Vậy là họ đem chúng tôi ra để xử lý
cái của nợ ấy. Không mìn không thuốc gì cả, chỉ xà beng búa tạ, búa con và cuốc
xẻng sẵn có thêm mấy câu khẩu hiệu đỏ chót treo lung tung khắp nơi làm thứ bùa
chú phụ trợ. Tự ái nghề nghiệp và tự ái của tuổi trẻ Mỏ Đá Hòn Giang chúng tôi
được khơi dậy, cộng với những ánh mắt dè bĩu thách thức của những công nhân xí
nghiệp Đá Chu Lai chủ nhà này. Họ như muốn gởi cho chúng tôi một thông điệp
rằng để xem chúng mày xơi cái thứ bỏ ra của bọn ông như thế nào.
Thật là kỳ tích, phải nói là một chiến
công vang dội vỗ vào mặt những kẻ bất tài vô tướng mà học thói ganh ghét hại
người, chỉ hai mươi lăm ngày sáng chạy đi tối chạy về như những người máy đã
được lập trình, chúng tôi giải phóng gọn gàng thứ hổ lốn vô dụng kia và biến nó
thành mấy ngàn khối đá thành phẩm, những toa đá 4x6 vuông thành sắc cạnh đều
chằn chặn hiền ngoan nằm nối đuôi nhau kéo dài đến hết tầm nhìn trước sự ngỡ
ngàng thán phục và kính nể của cán bộ cũng như công nhân ở Xí nghiệp Đá Chu
Lai, những đồng nghiệp của chúng tôi và họ cũng sẽ trở thành đồng đội của chúng
tôi sau chiến dịch kỳ lạ này. Lảnh đạo xí nghiệp cuối cùng đã quyết định chuyển
toàn bộ công nhân cánh nam chúng tôi về quây quần trong khu gian của xí nghiệp
như những chủ nhân ông đích thực. Không có chuyện ma cũ ăn hiếp ma mới như vẫn
thường xảy ra, vì chúng tôi là một tập thể lớn mạnh thật sự.
Nhưng đó là chuyện của mấy tháng mùa hè
sắp tới. Còn trở lại với buổi sáng đầu năm này, với những tiếng súng bất thường
vào chạng vạng tối hôm nhiều nghi vấn ấy, thì sáng nay vào khoảng được nửa buổi
làm việc, dọc theo sườn đồi, nơi chúng tôi đang xoay trần ra để đập đá lại xảy
ra một sự kiện làm rã rời tâm lực. Từ xa, thấy xuất hiện lèo tèo và xộc xệch
một đám rước lạ đời. Men theo những lối đi nhỏ trên công trường là một nhóm
khoảng năm sáu người vừa đi vừa đùn đẩy. tiếng lèng xèng của kim loại va đập và
tiếng người vang vọng rền rĩ chen lẫn với tiếng chát chúa của muôn ngàn tiếng
búa đập vào đá, tiếng xà beng cạy và tiếng hò reo chuyện trò râm ran cả một
vùng. Cái đám rước ấy cứ đi một đoạn lại dừng chân ở chỗ có đông công nhân đang
làm việc, mươi lăm phút sau lại tiếp tục di chuyển, tiếng lèng xèng càng lúc
càng rõ rệt, hình như nó được phát ra theo chủ ý vì sự nhịp nhàng khúc thức.
Xèng xèng xèng…! Xèng xèng xèng…! Xèng xèng xèng…! Mỗi lúc một gần. Mọi người
nhốn nháo ngạc nhiên nhưng không dám bỏ vị trí vì đã quen nếp rồi. Khi chưa có
lệnh thì không một ai được tự động rời bỏ nơi làm việc. Thắc mắc càng lúc càng
đẩy lên cao trào nhưng rồi cuối cùng mọi sự cũng được phơi bày khi cái đám rước
ấy đến chỗ của đội chúng tôi. Được lệnh tập họp ở một khu bãi tương đối bằng
phẳng và rộng thoáng, chúng tôi nhanh chóng chấp hành vì thói quen đã được định
hình mà còn phần nữa là sự tò mò, muốn biết chuyện gì đang diễn ra. Trước mắt
chúng tôi, một chàng trai trẻ cỡ mười chín hai mươi gì đấy. Đó đúng hơn là một
cậu bé nhỏ thó và gầy guộc, khuôn mặt hoảng hốt và đôi mắt lạc thần, cậu nhìn
mọi người mà như nhìn vào cõi vô định. Quàng trước ngực là một mảnh bìa các
tông lớn bằng hai cuốn vở học trò ghép lại trên ấy nguệch ngoạc dòng chữ bằng
than : “Tôi là Nguyễn Ng… C….”. Phía
sau lưng cũng một tấm bìa như vậy với dòng chữ “Tôi là thằng ăn cắp”. Trên tay cậu ta là cái nắp vung sứt sẹo và
móp méo được gõ bởi một cái dùi gỗ cầm ở tay kia, cứ ba nhịp một xèng xèng xèng
mà chúng tôi đã nghe được từ xa. Mỗi lần gõ cậu lại xướng to lên một câu. Xèng
xèng xèng “Tôi là Nguyễn Ng… C…!”.
Xèng xèng xèng “Tôi là thằng ăn cắp”.
Xèng xèng xèng “Tôi là Nguyễn Ng… C…!”.
Xèng xèng xèng “Tôi là thằng ăn cắp…!”….Cậu
xướng mấy câu trên mà hình như không hiểu mình đang kêu gào cái gì, có lẽ nó
chẳng dính dáng gì đến cậu. Như một cái máy hát quay đĩa bị xước cứ quay vòng
trở lại đoạn ghi âm cũ. Thỉnh thoảng cậu giật bắn mình vì một lằn roi vô hình
vụt quét sau lưng. Áp giải tội đồ là 3 công nhân lực lưỡng mặt khó đăm đăm,
súng AK ghìm sẵn trong tư thế sẵn sàng nhả đạn. hai người kèm hai bên, một
người đi phía sau thúc súng vào lưng. Chỉ huy đám rước ấy là một người đàn ông
ngoài 40 tuổi, khuôn mặt khắc khổ đen đúa, một bên mắt là cái hốc sâu hoắm, có
lẽ bị thương trong chiến tranh. Sau này chúng tôi mới biết ông tên T., bí thư
chi bộ và là phó chủ nhiệm của Xí nghiệp Đá Chu Lai, một tay cán bộ khét tiếng
chằn ăn, gay go và rất đáng sợ đối với công nhân lao động. Ông T. mở một cuộc
họp bất thường với đội chúng tôi ở giữa trời thông báo về sự việc đang diễn ra.
Để bồi dưỡng cho công nhân lao động nặng
nhọc, thỉnh thoảng hai ba tháng một lần, công trường cũng phân về chút ít nhu
yếu phẩm. Thường thì mỗi người được nhận một ký đường cát vàng, có lúc một lon
sữa bò hiệu Ông Thọ, khi lại đụng ký sữa bột loại viện trợ trước đây còn sót lại,
ăn vào mắc nghẹn và dễ bị tào tháo đuổi. Đợt này mỗi công nhân ở phía bắc nhận
được mỗi người một lon sữa bò. Nguyễn Ng… C… do quá thèm ngọt sau thời gian dài
nên đã đục lon sữa ra và hút sống ngay một lần là hết. Thèm quá không vượt qua
được cám dỗ. Thấy thằng bạn thân để dành lon sữa trong ba lô, rủ hoài chưa chịu
lấy ra dùng, C. bèn nghĩ cách ăn vụng. Sáng ấy C. báo ốm xin ở nhà, đợi lúc
vắng người chàng ta lôi hộp sữa của bạn ra đục lổ rồi hút đi một ít. Ban đầu
cũng chỉ định bụng chùng lén chút ít cho đỡ thèm thôi, còn thì để phần lại cho
bạn. Nhưng khốn nạn cho sự thèm lạt đã lâu ngày, cứ thêm một ít rồi lại một ít
nữa. đến chừng tỉnh người ra thì lon sữa của bạn đã chẳng còn một giọt nào,
không biết phải xoay sở ra sao, C. bèn đem cái lon tội nợ ấy đi giấu để thủ
tiêu tang vật hòng chối tội. Chiều ấy thằng bạn lại dở chứng muốn lấy hộp sữa
ra khuấy uống. phát hiện thấy mất, nó hô hoán lên, thế là Ban chỉ huy Xí nghiệp
vào cuộc, hùng hùng hổ hổ đòi lôi ngay tên trộm cắp ra xử lý. Quá hoảng sợ C.
vụt chạy thoát thân vào phía núi để mong tránh cho qua khỏi nạn chờ tình hình
yên ổn sẽ về chịu tội. Ai ngờ Ban chi huy ra lệnh cho đội cờ đỏ truy sát, đuổi
theo và bắn hàng loạt đạn vào hướng C. đang chạy trốn, với mệnh lệnh bắn bỏ tên
tội phạm trộm cắp tài sản của đồng chí đồng đội, một cái tội không thể tha thứ
dưới chế độ mới. Đội cờ đỏ lùng sục cả đêm tìm bắt, nếu C. không chịu quy hàng
thì được phép bắn chết tại chỗ. Sự việc cực kỳ nghiêm trọng. Ban chấp hành Liên
chi hội Thanh Niên phải đứng ra bảo lãnh xin với lảnh đạo xí nghiệp nhận về xử
lý và giáo dục. Đêm ấy, mấy anh có trách nhiệm phải lùng sục trong núi tìm và
dỗ dành động viên, hứa đứng ra bảo lảnh nên C. mới chịu theo về trại. Sáng hôm
sau, Ông T. gọi C. lên làm việc, vừa bước vào phòng, ông ta bắt C. đứng nghiêm
rồi dùng dép su đang mang dưới chân đánh mấy bạt tai như trời giáng vào mặt,
vừa đánh vừa sỉ vã chửi bới mà không một ai dám can ngăn. Sau đó ông bắt C.
ngồi viết tường thuật cụ thể việc ăn
cắp. Đó là thứ tàn dư của chế độ cũ, thứ người quen thói ngồi mát ăn bát vàng,
chây lười lao động, thứ cặn bã ăn bám vào đồng loại. Hình như tất cả mọi cung
bậc của sỉ nhục đã được triệu tập đầy đủ để ban phát cho tên tội đồ to gan lớn
mật kia, dám bôi xấu cả một tập thể tốt đẹp dưới chế độ mới. Được sự bảo lảnh
của liên chi hội Thanh Niên, ông T. đồng ý xử lý nội bộ, không truy cứu trách
nhiệm hình sự hoặc đề nghị đưa đi cải tạo như ý định ban đầu. Và cái hình thức
xử lý nội bộ vô cùng nhân đạo của ông T. cũng như của xã hội mới diễn ra tuần
tự như vậy. Sáng đó, ông T. ra lệnh cho đội cờ đỏ cởi hết áo quần của Nguyễn
Ng. C., chỉ chừa lại một chiếc quần đùi bẩn thỉu, họ được lệnh trói quặt C. ra
giữa cột cờ phơi nắng và bỏ đói, cấm không một ai được đến gần, trừ người đội
viên cờ đỏ được phân công canh gác cẩn mật, thỉnh thoảng vài giờ đồng hồ thì
đem cho C. uống một chút nước. Họ trói giữ C. suốt một ngày phơi nắng và một
đêm giữa trời sương lạnh cắt da cắt thịt, đến đúng bảy giờ sáng hôm sau mới cho
người ra mở trói đưa C. vào Ban chỉ huy để làm việc tiếp. Kế đến là hai ngày
liền ngồi làm kiểm điểm, bao nhiêu tội nợ nhục nhằn, bao nhiêu đắng cay tủi hổ
của một con người còn biết tủi hổ đã trút ra cạn kiệt, C. không còn nước mắt để
khóc. C. tự căm ghét nguyền rủa bản thân mình, miếng ăn là miếng tồi tàn thật
đúng một cách oan nghiệt như trong trường hợp của C. Rồi đây ăn nói làm sao,
sống làm sao được với mọi người chung quanh, mà cái lon sữa bò Ông Thọ kia có
đáng để cho mình đánh đổi một giá quá đắt đến như thế này không, cái giá còn
khủng khiếp hơn cái chết, ước gì bây giờ được chết đi nhanh chóng thì diễm phúc
biết chừng nào, nhưng làm sao mà chết được khi mấy người cờ đỏ cứ ghìm súng
chực chờ bên cạnh. C. cảm thấy tiếc nuối cho những tràng đạn đêm qua, sao không
có viên nào tìm đến với mình để kết thúc nỗi ê chề của một kiếp người trót lầm
lỡ này. Mà cũng chỉ vì nghĩ đơn giản rằng lon sữa đó của thằng bạn thân nhất
kia mà, hai đứa đã từng sẻ chia cho nhau biết bao điều, đã tiếc rẻ cái gì với
nhau đâu. Tại sao sự việc lại phải đi đến nông nỗi này? C. không còn nhận thức
được mọi sự việc diễn ra với mình, C. thực hiện mệnh lệnh như một cái máy,
người ta lên giây cót và cứ thế nó tự động các thao tác đã được sắp đặt.
Sau hai ngày ngồi viết kiểm điểm ở Ban chỉ
huy, C. được đưa ra trước tập thể cả ngàn con người, vốn là những đồng đội thân
thuộc của mình, bây giờ mọi người nhìn mình bằng con mắt xa lạ. C. được phép tự
nhận mức án nhục hình theo như gợi ý của cấp trên. Đứng đấy để cho mọi người sỉ
vã, mắng nhiếc và tố khổ, rồi những lần mất cắp hoặc rơi vãi đâu đó lại cũng
được đem ra truy vấn. Chẳng hiểu đấu tố cường hào ác bá địa chủ ngày xưa mức độ
khốc liệt như thế nào, chứ với những chàng trai cô gái đôi mươi thế hệ chúng
tôi, thì đây đúng là một cực hình chưa từng xuất hiện trước đây trong đời sống,
và như để ban phát cho đúng người đúng tội, thực hiện trọn vẹn cái sự khoan
dung độ lượng thấm đẫm tình người của những kẻ có trách nhiệm, C. được dẫn đi
bêu khắp công trường, trong phạm vi toàn Xí nghiệp Đá Chu Lai, bộ phận cánh nam
chúng tôi tuy mới chuyển vào cũng được hưởng màn diễn miễn phí ấy, một kết hợp
vừa mang tính giải trí vừa mang tính giáo dục, nhằm răn đe những ai còn có ý đồ
trộm cắp trong tương lai, dầu chỉ trộm cắp những thứ vặt vãnh bỏ đi không giá
trị.
Sở dĩ người ta đặt tên “Sữa Ông Thọ” là
nhằm quảng cáo lên rằng nếu sử dụng thường xuyên loại sữa này, thì trí tuệ sẽ
được minh mẫn, sức khỏe sẽ tăng cường đáng kể, sống lâu đến cả trăm tuổi mà vẫn
cường tráng như hồi trai trẻ. vì nó chứa nhiều dưỡng chất có ích cho con người.
“Ông Thọ” là cách Việt hóa nhãn hiệu sản phẩm cho dễ hiểu vì gần gũi chứ cái
hình ảnh cầu chứng in trên mảnh giấy bao bì của lon sữa chẳng có gì giống người
Việt ta cả. Đó là hình vẽ rất đẹp và rõ ràng về một người đàn ông lớn tuổi, vạm
vỡ, khuôn mặt râu ria nhìn rất giống nhà văn Ernest Hemingway của Mỹ, ông ta
mặc áo sơ mi dài tay, quần rin nai nịt gọn gàng đứng cười sảng khoái, một tay
chống nạnh, tay kia chống cái cán cúp, một loại dụng cụ đào đất, minh họa cho
việc ông ta đang trồng trọt ở ngoài đồng trông rất oai phong. Bi hài là ở chỗ
Nguyễn Ng. C. chỉ mới hút trộm có mỗi một lon “Ông Thọ” của thằng bạn thân
thiết nhất vậy mà chút xíu nữa thì đã đoản mạng vì những loạt đạn AK tối ấy,
may mà chỉ bị bỏ đói cùng mấy chiếc dép su Bình Trị Thiên vào mặt, còn kiểm điểm
với lại đóng vai chính trong một đám rước vênh vang tiền hô hậu ủng thì thôi
coi như văn nghệ văn gừng vậy. Điều mà tất cả chúng tôi cứ lo âu trong lòng là
không biết rồi số phận của kẻ thèm ăn dại dột kia sẽ thế nào sau cái quyết định
kỷ luật trả về địa phương đề nghị tiếp tục có biện pháp quản lý và giáo dục mà
Ban chỉ huy xí nghiệp đã quan tâm dành cho Nguyễn Ng. C., cái giá của một lon
sữa đặc có đường.
Tam Kỳ 06/01/2015
Độc ẩm
Độc ẩm
Tặng: Văn Ngọc Quang
Ly mày cụng với ly tao
Uống đi cho máu trên đầu sục
sôi
Nhục vinh đã khác kiểu rồi
Ngọt bùi nuốt sống ăn tươi
cũng vì
Đã từng bày đặt tu mi
Trơi ngươi mắt ốc làm chi hỡi
mày
Nghĩ gì mà bẽ đốt tay
Buồn gì thở vắn than dài - Mày
ơi!
Bơ vơ tao nói tao cười
Mày ngồi khóc nổ con ngươi
một mình
Rượu tàn ly chén lặng thinh
Rồi ra tao biết bất bình với
ai
Chút lòng còn đọng đáy chai
Nghiêng nhau mà rót qua vai
quỷ thần
Say là đổ đốn hư thân
Khoát tay dấy cuộc phong trần
nghiệp dư
Núi sông chắc cũng cười trừ
Trách chi mấy đứa buồn như hũ
hèm
16/3/2015
Trương Chi
Trương Chi
“Tặng
những thằng bạn Cung Cầu Đường Sắt Tam Kỳ”
Học đòi Trương Chi bên sông
Tam Kỳ
Thổi sáo không kêu
Khảy đàn không được
Mỵ Nương của tôi toàn con nhà
nghèo
Tôi thương em nông dân áo vá
Tôi yêu người công nhân áo
bạc
Tôi mê nàng chạy chợ đã có
người yêu
Mỵ Nương của tôi dầu dãi nắng
mưa
Mỵ Nương dậm thuốc rê Trường
Xuân Tam Ngọc
Mỵ Nương mắt buồn khoai Xiêm
sắn lát
Mỵ Nương mặt bủng da chì cơm
độn bo bo…
Tôi như thằng Gù nhà thờ Đức
Bà say Esméralda
Áo phong trần vá nỗi buồn mới
lớn
Soi mặt sông dài nuôi mộng
Tràng Khanh
Đứng hú bên giòng hồng nhan
Tống Ngọc
Cô đơn một gói độc hành
Thế hệ chúng tôi mộng mị nửa
mùa
Tội nghiệp những thằng trương
chi nặn mụn
Có đứa đưa bạn đến khoe nhà
vợ
Đúng ngày em đi lấy chồng
Cả bọn kéo về thở dài ố vàng
Ga xép
Tôi cầm cố khuôn mặt mình ký
nợ một cơn say
Rượu không thành tri kỷ
Đàn guitar đứt dây
Tình yêu bạn tôi gióng giã
hồi còi
Ôi! Những thằng trương chi
thảm hại đáng thương
Không sắm nổi con đò rêu rao
cho mình tiếp thị
Những Mỵ Nương sở hữu nỗi
buồn
Khi cơm áo trở thành triết lý
Trái tim đầu hàng miếng ăn
Trái tim vô tích sự
Tôi cầm tâm hồn lên giữa lòng
tay
Tôi cầm nỗi buồn tôi làm một
chuyến bụi đời
Những sân ga vẫy chào tiễn
biệt
Những sân ga không còn chỗ
gọi mời
Tôi đồng hành nỗi buồn chuyến
bụi đời mải mốt
Ngày Trương Chi nghễnh ngảng chân
chậm mắt mờ tìm về bến sông
Bến sông quạnh vắng
Tìm về Mỵ Nương
Những Mỵ Nương hom hem đùm đề
con cháu
Đứa nhớ đứa quên nhập nhằng
chuyện cũ
Em ơi mây trắng cỏ vàng
Giòng nào hiu hắt gió
Khóc rống góc trời may rủi mưa
sa
Trương Chi một mình đi tìm
trái tim
Trái tim không biết bơi trái
tim chết đuối
Bến sông
Bến sông
Bến sông run lạnh
Sao hãy còn run lạnh cố nhân hời…!
13/3/2015
Nguyễn Đức Dũng
Tam Kỳ
Tam
Kỳ
Hàng
quán chùm hum dưới bóng sưa già
Bà
bán cơm khuya lui cui bếp lửa
Những
con hẽm ổ gà gập ghềnh giấc ngủ
Xúm
xít điếu thuốc lập lòe nụ cười ba gác cyclo…
Anh
hai mươi ngồi đồng Sanh Hưng Nam Ngãi chờ sương
Ly
rượu nhảy tàu đắng chèn tiễn bạn
Tiếng
còi đêm giật thót con đường
Chẳng
hiểu sao phố gặp làng ngẩn ngơ ngã ba
Anh
mọc rễ cái nhìn rợp buồn Trường Xuân quán Mít
Quen
nhau bánh đúc bánh bèo
Lần
quần chè No bà Dần làm chi
Mấy
hàng trầu cau chợ chiều hóng khách
Nhớ
hồi bảy chín tám mươi
Thương
anh gác Cầu Treo đói xanh con mắt
Em
tặng người yêu những rỗ trứng gà*
Cái
ngọt bùi dậy hơi con gái
Mấy
thằng bạn nghèo qua đận đói vàng da
Nhớ
Mỹ Tân An bãi bờ sắn bún dẽo thơm
Rứa
mà em như sông lầm lũi không về
Sớm
mùng năm rạm kết bè yêu đương mở hội
Anh
ngồi gõ thành cầu một mình hát phu hát thê
Có
ai bắt tội bắt tình quặn thắt câu thơ
Có
ai biểu anh phải lòng Tam Kỳ đứt ruột
Cái
xứ chẳng kiểng quê chi mà gớm thiệt
Yêu
iếc sơ sơ rồi chết ngã ba đường…
Sáng 10 tháng Giêng Ất Mùi –
2015
Nguyễn Đức Dũng
Thứ Ba, 17 tháng 3, 2015
“Yêu là yêu như một nhu cầu” Câu thơ tình của ai đó mà tôi đọc được từ trang tạp chí cũ hồi còn ở Mỏ đá Hòn Giang vào mùa đông năm 1975. Song chuyện dưới đây lại là thứ “nhu cầu” khác, bức thiết hơn, hồng hoang hơn của những đòi hỏi con người. Dân Miền Trung chúng tôi gọi là “Thèm”. Thèm ăn thèm uống, là đói cơm lạt muối. Đó là loại nhu cầu mang tính vật chất, đáp ứng những tiêu chuẩn cần thiết cho điều kiện sống của một con người, nó mang nỗi niềm của da thịt, nó hàm súc triết lý của dạ dày, nó thúc hối dằn vặt và xéo dày ruột gan, nó đủ quyền phép làm cho con người có thể rơi vào cảnh huống tồi bại và hèn kém. Tục ngữ có câu “Khi đói đầu gối phải bò…”. Thèm muốn là một cảm giác cám dỗ đầy cạm bẫy, có thể đẩy con người vào bi kịch khi không đủ bản lĩnh để kìm nén cơn kêu đòi dung tục. Ăn uống, ngủ nghỉ và yêu đương xác thịt là nỗi thèm khát bị nguyền rủa truyền đời, đeo đuổi rình rập những khi ta yếu mềm lòng dũng khí. Hoàn toàn khác với nhu cầu tinh thần đẹp đẽ mà câu thơ hướng tới. Kết cấu địa chất khoáng vật của núi đá Chu Lai cũng lạ. Cả một mạch núi nhưng không như ở mỏ Phước Tường – Đá kết tầng. Dạng vật chất kết cấu theo lớp lang, tầng bậc, rất dễ khai thác. Đá Chu Lai là một khối hoa cương cấp I khổng lồ. Siêu cứng, lấp lánh những phần tử hạt dưới nắng trời như ánh kim cương, như những vì sao nhấp nháy lung linh trong đêm tối. Ta cứ hình dung cả dãy núi mênh mang kia là một thực thể đá mồ côi được sinh ra trong quá trình vận động hình thành lớp vỏ trái đất. Nó tạo nên một mạch núi đá liên hoàn và liền khối. Thời trước, tập đoàn RMK của Mỹ đã tổ chức khai thác. Đây là mỏ lộ thiên có trữ lượng tương đối lớn, kế hoạch khai thác hàng trăm năm, tính từ thời thực dân Pháp sang ta. Sử dụng cho xây dựng cơ sở hạ tầng, mở mang đường sá, cầu cống… Sản xuất đá thủ công hoàn toàn bằng sức vai u thịt bắp của tuổi trẻ cộng với nhiệt huyết tin yêu cuộc sống mới. Chúng tôi ào ào xông pha vào khó khăn gian khổ của công việc lao động khổ sai mà hân hoan như một dạo chơi, thụ hưởng những giá trị cao đẹp của cuộc đời. Một ý niệm vinh quang đặt bày tô vẻ quàng vào nghĩ suy của lớp tâm hồn mới. Phơi phới lý tưởng. Khao khát sớm trở thành những công dân hữu dụng. Đóng góp nhiều nhất công sức tâm lực hòng xây dựng quê hương giàu đẹp, đất nước phồn vinh và cuộc sống thiên đường có thật dưới ánh mặt trời. Trong môi trường ấy, sức người đổ ra mỗi ngày mỗi giờ giữa công trường không thể cân đong đo đếm nổi. Chỉ phản xạ sinh lý thường trực cho phép con người nhận thức được rằng mình đang tồn tại và chiến đấu. “Chiến đấu” chứ không phải “làm việc”. Ta phải luôn dung dưỡng trong tâm trí mình sức đề kháng mãnh liệt nhất có thể để chống chọi lại với cái đòi hỏi bản năng trần tục từng giờ từng phút. Sự thèm thuồng. Nhu cầu muốn được ăn uống. Muốn thỏa mãn cơn co thắt của gan ruột và phản ứng bài tiết dịch vị của vòm miệng. Sự thèm ăn ám ảnh cả vào trong giấc ngủ. Ban ngày đổ tống tháo sức lực ra với xà beng búa tạ, với gióng gánh cuốc xẻng, vậy mà đêm đêm, lứa trẻ trai mười tám đôi mươi chúng tôi gặp toàn những giấc mơ ngon. Tuổi đương độ phát tiết anh hoa chung sống vui đùa bên những cô gái xinh tươi ngon giòn con mắt mà hiếm hoi những mộng mị đẹp. Năm thì mười họa mới có được bữa liên hoan bồi dưỡng khi sơ kết quý hoặc sáu tháng kế hoạch. Lúc đó mới nghe được vài thậm thụt nhỏ to ngoài bãi đá vào giờ giải lao: “Hồi hôm tau bắn máy bay…!” Môt khoái cảm điều tiết tự nhiên rất người mà mất hút giữa giai đoạn sung mãn nhất. Nó như thứ van xả tự động của một nồi hơi khi bị nén quá đầy. Than ơi! Chúng tôi những năm tháng đẹp đẽ nhất của một đời người vậy mà mấy khi được lèn nén để mong bật xả… Để giải tỏa nỗi thèm thuồng bu bám luôn dày vò. Những câu chuyện kể về món ăn ngon, những bữa ăn no đầy đã chìm khuất từ hồi tu huýt tu lai nào đó lại được đào xới lên, dọn ra bày biện chi li lại cho nhau thụ hưởng. Hâm nóng ký ức ngon miệng ấy mà cảm nhận dịch vị đang lén lút đẫm ướt vòm họng. Sợ bè bạn trêu cười, thỉnh thoảng có đứa lại tìm cớ quay mặt về hướng khác, như thể đang làm một việc gì đó bất chợt nghĩ ra. Nhưng tất cả chúng tôi đều biết tỏng rằng bạn mình vừa giấu đi một lần nuốt nước miếng. Quy luật cung cầu lại tìm cách nảy nòi. Mỗi đội sản xuất vài trăm công nhân lao động. Với đồng lương chỉ mang tính ví dụ vậy mà rồi cũng có người biết chắc bóp để xoay xở sinh lợi. Ban đầu chùng lén thăm dò, sau không thấy cấp trên có ý phê phán gì nên mạnh dạn công khai. “Bung ra” làm ăn bài bản hẳn hoi. Những tay “Cơ hội” lanh lẹ ấy tranh thủ từng thời gian nghỉ hiếm hoi liên hệ ngoài chợ thị trấn An Tân lấy hàng về bán lại cho anh em trong đơn vị. Chủng loại không lấy gì làm phong phú vì chưa “trường vốn”. Song chỉ vài mặt hàng “nóng” thôi mà đã giải quyết được biết bao nhiêu cái miệng háu ăn giữa thời buổi khủng hoảng dinh dưỡng trầm trọng ấy. Ngoài hai mặt hàng chủ lực chạy nhất là bánh chưng nhưn thịt heo mỡ và kẹo đậu phụng. Những “Đầu nậu” này còn “kinh doanh” thêm đường bát, thuốc lá và vài loại nước ngọt có ga. Một loại hàng hóa nữa cũng đã được dấm dúi tuồn vào nhưng phải bán chui và chỉ dành riêng cho “khách ruột”. Nghĩa là dạng bạn hàng cực kỳ “uy tín”. Uống rượu mà không để cho người khác phát hiện ra mình vừa lai rai vài ly ba xi đế. Có cho thêm vàng cũng đố đứa nào dám ăn gan hùm mật gấu mà để người ta thấy mình say rượu! Sợ kỷ luật. Từ khi xuất hiện mấy cái “Quán” tài tử này thì hầu như đám trai trẻ chúng tôi không còn biết đến tiền là gì nữa. Tới tháng nhận lương, chủ quán “bắt tay” với tài vụ xử lý nhanh gọn khoản “thu nhập gọi là” sau cả một tháng trời trần lưng ngoài bãi đá mặc cho mưa nắng đỏng đảnh thất thường. Từng đoàn công nhân xếp hàng dài chờ vào văn phòng Ban chỉ huy để ngoáy một phát vào cái ô hình chữ nhật bé tẹo trong sổ lương đơn vị là xong! Mọi thừa thiếu được “lũy kế” vào cuốn sổ nợ đời trong tay chủ quán. Thường thì thiếu lại chút ít. May mắn lắm mới gần trùng khít với khoản lương được nhận. Lâu lâu, đứa nào được giải quyết cho phép về thăm nhà thì cả nhóm bạn chơi thân với nhau phải quyết tâm cao độ, ăn nhín nhịn thèm, tránh trớ hàng quán như tránh bệnh dịch, dứt khoát hạn chế ghi sổ dành lại chút ít chung vào để bạn có đủ tiền tàu xe và “quà bánh đại khái” cho một chuyến thăm nhà. Cứ thế mà xoay vòng, cho nên cả năm trời mới có dịp về thăm cha mẹ anh em ruột thịt đôi ba bữa. Cũng do vậy mà truyền miệng câu nói vui: “Tăng xin giảm mua hút tuyệt đối để đi đến giai đoạn xin toàn diện”. Một cách phê phán nhẹ nhàng những ai ky bo chuyên chôm chĩa lợi dụng sự hào phóng của người khác, mà cũng vừa tự chế nhạo, dặn dò mình bớt tiêu pha vung phí. Có vài tay “khôn lõi” không thèm “mở quán”. Phần sợ khó thu hồi vốn phần nhát gan không dám kinh doanh, thương trường là chiến trường kia mà, người xưa đã từng dạy rồi, lơ tơ mơ chỉ có nước “sạt nghiệp”. Đó là những tay có sẵn máu đỏ đen di truyền. Cờ bạc thì dứt khoát chẳng ai dám nghĩ tới rồi, song mưu ma chước quỷ ở đầu óc của hậu duệ Đổ Bác lại sáng tạo ra được vài hình thức mới. Ăn thua rất cay cú nhưng khó có thể quy trách nhiệm để xử lý kỷ luật. Đó là các kiểu cá độ. Ban đầu cũng do mấy thằng “hẻo” quá khơi mào. Những đứa ăn nhiều, ăn không biết no. Nhỏ người mà lớn bụng. Lại hay đau ốm vặt, sức khỏe kém nên lương thấp. Cảm giác đói thèm vô phương chữa trị. Mấy tên này đương nhiên được xếp loại “Tín nhiệm thấp” chót bảng. Không được chủ quán để mắt tới chào đón như những “thượng đế” khác. Thường xuyên chầu rìa góp chuyện vặt quanh những bữa ăn bồi dưỡng của đồng đội. Mắt hau háu nhìn vào từng miếng cắn miếng nhai của mọi người mà nói tầm phào, chẳng đâu vào đâu, cốt để lấy cớ nhìn người ta ăn cho đỡ thèm. Nhân nói vu vơ ấy mà nuốt nước miếng. Thông điệp thường xuyên như một thứ phép màu của mấy tay này là chuyên thách độ: - “Ơ! Tau có thể ăn gọn một cặp đường đen…” - “Tau có thể xơi tái 5 phong lương khô 701…” - “Tau có thể giải phóng 5 cặp bánh chưng..” - “Ơ! Tau có thể … một gói kẹo đậu.v.v. và v.v…” Đứa mô dám độ không? “Nhỏ người to con mắt” là kiểu ví von của ông bà mình ngày xưa nhằm chê trách những kẻ háu ăn. “Vào độ” thua sặc máu nhưng còn biết cách nào? Ký sổ không được! Vay mượn không xong mà cái sự thèm kia nó bất kể chi nhướng, không biết tự lượng thân phận bọt bèo. Mà không biết cái thứ nước miếng khốn khổ đó ở đâu ra mà nhiều đến thế, cứ đầy ứ miệng mồm làm tình làm tội. Đành mặt dày mày dạn cố đấm ăn xôi, rồi ra kệ thây hậu họa, cùng lắm thì chịu trận cho chủ quán nó chửi bới chán chê rồi cũng qua một quận. Vậy là độ. Lúc đầu thì độ ăn bánh chưng, vừa no vừa béo, thanh toán cơn thèm lưu cửu hành hạ đêm ngày. Mức khởi điểm như người ta tổ chức đấu thầu là 5 cặp bánh chưng. Đa số chào thua khi lột vỏ cái bánh thứ năm, nghĩa là chưa giải quyết trọn vẹn 3 cặp bánh, thế là thua độ, phải chịu trả tiền mức phạt gấp đôi số thách độ ban đầu, cũng có nghĩa là phải chịu ghi nợ chủ quán 10 cặp bánh chưng để dành cho mấy tay “Thầu độ” ăn dần không mất tiền. Tôi là một trong số không nhiều những tên thua độ ở cặp bánh thứ tư. Trợn mắt nín thở để giữ cho khỏi mửa trào ra ngoài phần mình vừa ngốn qua cửa miệng. Cầm cái bánh thứ bảy lột vỏ mà nước mắt lưng tròng. Trước mắt mình không còn là cái bánh chưng đầy cám dỗ vẫn hằng mơ ước mà là một hình khối chữ nhật bằng nếp nấu nhuyễn có các số đo thể tích 8cm x 8cm x 4cm đầy trêu cợt và mai mỉa. Giới hạn thời gian quy định nghiệt ngã của trận đấu đã gần hết hạn. Thế là thua, là chung độ trong sự nhục nhã ê chề vì miếng ăn đầy tủi hổ. Mức thách 5 cặp bánh chưng dừng lại khá lâu, biết bao nhiêu hảo hán đành cúi đầu khuất phục. Những tay thầu độ vênh váo cậy tiền khinh người ra mặt. Vậy mà một chiều, khi công nhân đang tắm rửa sau buổi làm mệt mỏi ở những cái giếng nước tự đào quanh xí nghiệp, bỗng dậy lên tiếng hò reo vang động một góc trời. Té ra bên đội 2 đã xuất hiện anh hùng cái thế. Chàng ta dõng dạc tuyên bố sẽ giải phóng gọn 10 cặp bánh chưng sau thời gian dài náu mình im tiếng. Trời đất ơi! Vậy mà anh ta đã thắng. Một chiến thắng vinh quang vỗ mặt mấy tay thầu độ cậy thế hiếp người. Hay tin, cả rừng người tụ tập trước sân xí nghiệp, ai nấy đều nghe hả lòng hả dạ, tung hô khen ngợi không tiếc lời, kẻ đã rửa được mối hận thèm ăn thua độ của mấy trăm con người ôm nỗi hờn căm nuốt cay đắng vào lòng, vừa mất tiền vừa chịu tiếng đời thị phi báng bổ bấy nay. Thói thường ai cũng khó ưa những tay thầu độ, như tâm lý ghét người giàu có hợm hĩnh của kẻ nghèo hèn. Song ông trời lại quen thói phù thịnh chớ chẳng phù suy, nên chi ngậm ngùi kia của lực lượng thèm ăn kìm nén lâu ngày nay được dịp bùng vỡ, một hạnh phúc lạ lùng xoa dịu niềm thống khổ trầm luân đè nặng biết bao đầu xanh tuổi trẻ. Chàng trai lâu nay vốn vô danh tiểu tốt, không một chút tài vặt thời thượng như mọi người, chìm khuất vào đám đông câm lặng, bỗng chốc đổi đời. Sự nổi tiếng đã đem lại niềm vui lớn cho không chỉ riêng anh, anh trở thành bạn bè thân thiết của cả xí nghiệp. Sau kỷ lục bánh chưng, kỷ lục kẹo đậu phụng, kỷ lục lương khô cũng lần lượt xuất hiện và thi thoảng bị phá vỡ. Nhưng có một kỷ lục lạ đời chắc chắn rằng chỉ Việt Nam mình mới có. Đó là kỷ lục đập đá tảng bằng búa tạ… Để phong phú thêm hình thức thi đấu nhằm tăng phần thú vị hấp dẫn trong các cuộc tranh tài. Giới thầu độ nghĩ ra được nhiều cách gầy độ và “gài độ” hiểm hóc, làm điêu đứng dân chơi thèm ăn cay đắng, những trận thua xiểng liểng tức mửa mật. Kỳ lạ ở chỗ là bầy thiêu thân vẫn không hề biết sợ, danh sách “tử trận” cứ nối dài theo những trận cười nói hò reo vang động công trường. Những bàn bạc trao đổi phương cách thi đấu được truyền tai nhau. Cũng bày ra chiến thuật chiến lược đấu sách hẳn hoi mang tính “có nghề” phù hợp cho từng trận giao tranh nảy lửa. Kinh nghiệm về cách ăn như thế nào để giảm no, giảm ớn được đề ra. Làm thế nào để chống lại cơn co thắt nôn mửa khi thức ăn đã tràn lên cổ? Tắm trước hay tắm sau khi thi đấu v.v. và v. v…Cũng đã gặt hái được kết quả hữu hiệu. Nhưng sự ranh ma quỷ quyệt của đối phương cũng chẳng hề thua kém. Những ràng buộc về thể thức thể lệ thi đấu được bổ sung liên tục để phù hợp với tình hình “chiến sự” diễn ra ngày càng éo le và khốc liệt. Để cổ súy phong trào, tập thể đã phân hóa hình thành rõ rệt lực lượng giữa hai giới tuyến. Giới thầu độ và đám chủ quán ăn theo tuy ít ỏi thành viên nhưng lại nắm quyền sinh sát trận địa. Ngược lại, nguồn cổ vũ lớn lao và niềm cảm mến sẻ chia “chiến hữu bị loại khỏi vòng chiến đấu” đã hâm nóng gắn kết tình đồng đội của đông đảo phe bại trận. Danh sách các loại hình thách độ quái chiêu đã xuất hiện thêm những kiểu độ nực cười. Độ đục lỗ bắn mìn xem cặp thợ nào đục nhanh hơn, năng suất hơn. Độ đập đá 4x6 bằng búa con 1kg sau thời gian quy định xem ai có khối lượng sản phẩm cao hơn. Độ đọc thơ, ca dao bắt vần. Siêu nhất là vụ độ răng, giả hay thật, quả này đã làm điêu linh biết bao nhiêu tay hiếu kỳ phải ôm hận ngậm bồ hòn làm ngọt. Cho đến tận bây giờ dầu sự việc xảy ra đã gần 40 năm rồi, mà nghi án vẫn còn treo lơ lững. Chẳng biết cuối cùng rồi hàm răng đẹp đẽ, đều tăm tắp và trắng ngà ấy của anh Dũng là răng thật hay răng giả…? Trong kỹ thuật khai thác đá thủ công, người ta cho phép sử dụng một lượng thuốc nổ phù hợp để dùng vào những trường hợp gặp tảng đá nhỏ, không đủ điều kiện để đục lỗ bắn mìn. Định lượng thuốc nổ tuy vừa phải nhưng cũng không đạt chỉ tiêu tiêu hao vật liệu nổ quy định. Đó là phương pháp đánh mìn “Ốp”, tức kẹp khối thuốc nổ vào một điểm phù hợp, nổ tác động để làm nứt vỡ tảng đá ra cho công nhân dùng búa tạ tiếp tục đập thành đá hộc 25x30. Từ khi có “chiêu” độ đập đá tảng, rất nhiều tay nghề đã được nâng lên, người ta tìm kiếm biện pháp tối ưu nhất để thực hiện những ràng buộc hết sức hóc hiểm của cuộc đua tài. Ngoài giá trị vật chất là bánh chưng, lương khô, kẹo đậu v.v… thì tính tự ái của người thợ khai thác đá trước anh em đồng đội cũng đã bị thách thức. Thua độ không chỉ đơn giản là thua phần bánh quà đã giao kèo, mà còn có nghĩa chứng tỏ mình tay nghề kém cỏi trước bàn dân thiên hạ, những đồng đội đồng nghiệp luôn chung cùng mưa nắng vui buồn, danh dự nghề nghiệp bị tổn thương, ai mà chịu cho được. Vì vậy, những cuộc độ đập đá tảng luôn thu hút đông đảo khán giả, tất cả đến để xem cho vui và cũng đến để học hỏi kinh nghiệm của nghề nghiệp. Trong đông đảo tay chơi này, có khoảng chục người xứng đáng với sự kính phục của tập thể. Đó là những anh lớn tuổi, vào khoảng trên dưới 30, anh Phạm Hưng, tổ trưởng tổ tôi là người được toàn công trường ngưỡng mộ. Vốn là một Hạ sỹ quan Quân Vận, bị bắt làm tù binh vào năm 1972, được học tập cải tạo trên Trường Sơn, sau giải phóng anh được bố trí về tham gia Công trường Đường Sắt Quảng Nam – Đà Nẵng. Phạm Hưng người thấp đậm, vạm vỡ, giỏi võ, tính tình trầm lặng, chuẩn mực và tốt bụng, hay giúp đỡ mọi người. Anh không bao giờ tham gia vào những trò nhố nhăng cá độ, chỉ đơn giản “Giữa đường thấy việc bất bằng mà tha”. Khi gặp những cuộc độ có tảng đá quá lớn, thể tích hơn nửa mét khối, mặt tiếp xúc oái ăm, không có điểm để đập búa, thường thì đó là những tảng đá to tròn bị bỏ lại vì không mấy ai có thể đập nổi. Trong khoảng 15 phút giải lao giữa buổi làm việc, những tay thầu độ treo giá rất cao để lôi kéo những thằng tay mơ hám ăn vào tròng, việc thua độ đã sờ sờ trước mặt. Lúc ấy anh Phạm Hưng lặng lẽ vác chiếc búa 10kg của mình bước đến giải quyết giúp vụ việc, chỉ trong vòng 10 nhát búa hoặc 10 phút quy định tùy theo thỏa thuận của hai bên. Anh nhẹ nhàng điều khiển tay búa điệu nghệ. Cả công trường nín thở, không khí ngột ngạt bao trùm. Bục! bục! bục… cạch! cạch…! tảng đá kiêu kỳ thúc thủ vỡ toác ra sau một tiếng nổ khô gọn. Cả một khoảng bãi tưng bừng tiếng hò reo vang dội, người ta nhào tới bắt tay, cảm ơn rồi công kênh anh như một anh hùng. Cũng điềm đạm và lặng lẽ như vốn tính trời, Phạm Hưng khiêm tốn từ chối niềm “vinh quang bánh kẹo” trở về vị trí của mình, rời xa nơi vừa là một cuộc đấu trí lực đầy căng thẳng. Những lúc vắng im, anh em ngồi với nhau, anh Hưng chỉ vẻ cho những ngón nghề độc đáo. Sở dĩ anh không bao giờ chịu chào thua những tảng đá đầy thách đố ấy, là vì anh biết cách vận công, điều khí, thở sâu, tập trung khí vào huyệt đan điền dưới bụng, đôi tay cầm búa uyển chuyển, khi lơi khi chặt nhất nhất tuân thủ từng giây phút vận hành cơ năng để ra đòn. Anh bảo: “Như người võ sỹ xử dụng binh khí, phải biết hợp nhất giữa con người và binh khí vào lúc quyết định để tăng công lực, người ta thường bảo nhân kiếm hợp bích là vậy…” Quả thật, từ bài học được anh chỉ giáo, tôi tuy nhỏ con gọn người nhưng sau này cũng đã trở thành một công nhân đập đá không có đối thủ ở những đơn vị mới, tôi chưa từng chịu thua bất cứ một tảng đá to tròn nào khi đã quyết định ra tay với nó. Bây giờ bạn bè cà phê cà pháo bù khú cả ngày cả buổi với nhau là chuyện không vấn đề, chớ thời ấy đối với chúng tôi “Cà phê” không có trong từ điển của mỗi thằng con trai đôi mươi phơi phới. Ăn! Đúng. Chỉ béo và ngọt mới là mối quan tâm “đầu hàng” đòi hỏi luôn ở trong nhớ nghĩ. Chả bao giờ nghe đứa nào rủ nhau ra An Tân để uống cà phê cà pháo chi cả. Có mà điên! Mỗi tháng 4 chủ nhật thì mất 2 cái chủ nhật lao động xã hội chủ nghĩa rồi. Đó là tính những tháng làm việc bình thường chớ nếu vào chiến dịch thì “Thèng mô con mô núa chủ nhựt? Chỉ mẹt tau coi thử? Thứ tốm chớ!”. Hai chủ nhật được nghỉ chỉ quanh quẩn trong xí nghiệp, ai muốn ra thị trấn chơi phải xin phép và được sự đồng ý của Phân hội trưởng Thanh niên hoặc Tổ trưởng sản xuất. Mà ra chợ cũng chẳng để làm gì, đã vài lần ghé vào quán cà phê nhâm nhi trông sành điệu đấy nhưng cái ngon của thú thưởng thức cà phê nó quên mình mất rồi. Lang thang vài lần. Chán. Ở nhà chơi có khi hay hơn vì còn bạn bè đồng đội, tào lao xịt bợp hoặc giã hát hò với nhau cũng nghe khí thế. Ra thấy “người ta” ngẫm lại thân phận mình nó sao sao ấy! Cuối cùng rồi trời ta ta ngồi đất ta ta đứng, chẳng phải nghĩ ngợi nhiều. Rối! Cả 4 đội sản xuất “châu tuần” quanh xí nghiệp có đâu chừng sáu bảy cái “Amateur Quán”, không đủ nội lực để phục vụ cho một lượng khách quá sức đông đảo. Tuy vậy, hình thức “kinh doanh” này chỉ phát huy được vụ ký sổ. Tức là mua chịu nợ thoải mái đợi đến kỳ lương rồi tính! Còn “nhu cầu thoải mái” đúng nghĩa để tận hưởng cái thú “tiêu tiền” thì lại hiềm rằng “xa xỉ”, hầu như “viển vông”. Mỗi công nhân được bố trí một giường ngủ cá nhân, giữa hai giường là lối đi nhỏ. “Tư trang gia sản” tất cả cất giữ trong ba lô hoặc cái thùng gỗ vốn đựng thuốc nổ để đánh mìn, một dạng “rương hòm” rất hiếm quý, chỉ có bọn “đẹp người đẹp nết” hoặc giỏi làm thân với “trên” mới sở hữu được. Nó tiện dụng ở chỗ có thể khóa lại để bảo vệ được “tài sản” riêng tư. Tất tần tật đều phải xếp đặt gọn gàng trong không gian thuộc quyền “sổ đỏ” của mình, vì vậy mà việc “giao thương” cũng xem ra hơi bất tiện. Thỉnh thoảng để đổi gió và trốn đi hát nhạc “trước 75” cho nhau nghe, chúng tôi mò ra cái quán duy nhất của dân sở tại ngay đầu con đường độc đạo từ Quốc lộ I dẫn vào công trường. Từ nơi này đến khu tập thể chúng tôi cách một tầm hú gọi, đủ an toàn cho những riêng tư lén lút, tránh sự quản lý theo dõi của Ban chỉ huy và “tai mắt” dòm ngó đáng phải kiêng dè. Cả một vùng đồng không mông quạnh do ngày trước phải di dời trắng vì khu quân sự Phi trường Chu Lai của quân đội Mỹ. Sau giải phóng chẳng hiểu sao lại chỉ mỗi một ngôi nhà dân nằm hiu quạnh ở chốn này. Để vào quán, bạn phải đi qua một con đường nhỏ sát chuồng trâu quanh năm lầy lội vì phân chảy tràn ra ngoài. Cái thứ nhèm nhẹp nồng khai lưu cửu sền sệt xanh đen bỏ đi của trâu bò theo chân thực khách vào đến trong nhà. Đó là một thực thể gọi là “Nhà” được vá víu bằng đủ thứ vật dụng và “vất liệu”. Cả không gian ẩm mốc vì u tối, nóng hầm hập, mái nhà sùm sụp trên đầu vì quá thấp. Chen chúc trong cái gọi là nhà ấy là một gia đình hơi kỳ dị, người chồng đầu luôn cạo trọc, nước da gầy xanh khó đoán tuổi, ước chừng khoảng giữa của ba hay bốn chục gì đấy. Lúc nào cũng thấy anh luôn khom cúi người có lẽ do phản xạ tự nhiên, tay chân lóng ngóng vụng về. Chẳng mấy khi nghe anh trò chuyện ngoài vài tiếng ừ hử lấy lệ lúc khách hỏi thăm một điều gì đó. Sự “Khai sinh” và “Thương hiệu” của cái quán này đúng là sáng tạo nghệ thuật của một đầu óc phong phú tưởng tượng, xứng đáng xếp vào hạng “Thiên tài”. “Quán Hai Nhớp”. Chẳng ai biết được người chủ nhà tên gì, để cho phải phép, chúng tôi gọi là “Anh Hai” vì anh lớn tuổi hơn đám lau nhau chúng tôi rất nhiều. Sau ai đó phong thêm cho cái tên đặc hiệu nói trên vì sự tinh túy của cung cách làm ăn và chất lượng hàng hóa mà anh đang kinh doanh phục vụ. Hai Nhớp vô tư đón nhận danh hiệu cao quý từ trên trời rơi xuống chẳng chút tự ái giận hờn hay tỏ vẻ khó chịu, Anh thuận lòng sự đặt để ấy như rằng nó đúng chính là của anh, chỉ anh chứ không phải bất kỳ một ai khác được phép xâm phạm bản quyền. Bên cạnh Hai Nhớp là cái bóng của bà chủ nhà cỡ ngoài 30 có vẻ bệnh hoạn, nước da vàng vọt, khuôn mặt bủng beo mà đầy chịu đựng, cứ loay hoay trong bếp. Có bốn đứa trẻ vừa trai vừa gái mũi dãi lều phều và cóc ké sài đẹn treo trên người những tấm vải nhàu cũ cáu bẩn trước đó được gọi là quần áo, phất phới chạy nhảy lung tung trong cảnh giới ấy cho thấy còn chút sinh khí của sự hoạt động. Quán bán những món hàng vặt vãnh quen thuộc, mấy gói kẹo đậu phụng, một lọ thủy tinh đầy vết dấu tay đựng kẹo ú, xâu bánh chưn treo tòong teng bên cửa sổ, chồng bánh tráng đựng trong bao nilon vàng đục. Dưới nền nhà nhớp nháp dựng vài chai nước ngọt hình như đã quá hạn sử dụng vì nắp ken rét rỉ. Trong tủ lưới bé nhỏ vẹo vọ móc hờ một ổ khóa chắc để “phòng người ngay” chỏng chơ mấy gói thuốc lá rẻ tiền, chồng thuốc rê đen được cắt miếng vuông vắn. Sát góc tủ là cái can nhựa cũ kỹ đựng rượu Quảng Ngãi. Thứ rượu được cho rất nặng đô và khó nuốt vì bị pha chế thêm nước lạnh cộng với lung tung các thứ độc hại để kiếm được nhiều tiền lời. Điều đặc biệt lôi kéo khách hàng ở cái quán này là bánh đúc. Vợ Hai Nhớp loay hoay dưới bếp để làm bánh trong mấy cái rỗ tre, mẹt tre và kể cả mấy cái bịt mõm bò lót lá chuối. Bánh làm bằng gạo đỏ, hấp trong cái thùng tole móp méo dưới căn bếp lộn xộn thau chậu soong nồi và bù hóng mạng nhện. Khi có khách vào ăn, bánh được cắt ra thành từng miếng xinh xắn tùy theo giá tiền bởi một con dao bạ đâu vất đấy, Hai Nhớp ngó dáo dác tìm lấy dao rồi quẹt đại vào bất kể thứ gì trong tầm tay, coi như chùi cho sạch trước khi cắt. Đôi tay bẩn thỉu bốc mấy lát bánh bỏ vào một cái dĩa nứt rạn rồi đặt lên bàn trước mặt những “thượng đế” lúc nào cũng sẵn đói thèm, Hai Nhớp múc mắm cái trong một thẩu nhựa vo ve ruồi nhặng đổ vào một cái chén đất, hai ba người cùng chấm chung chén mắm ấy, nếu có ai kỹ tính lắm thì đem thêm chén lên để khách ăn riêng. Kinh khủng nhất là những chén mắm cái còn sót lại khi khách ăn xong, tất cả đều được Hai Nhớp dùng chiếc đũa tre mốc xì vớt lọc bỏ những vụn bánh nằm lẫn trong mắm rồi vét sạch vào cái thẩu đựng để ở trên bàn, đợi múc ra bán tiếp cho những “Thực khách” quý hóa đến sau. Lối “quay vòng mắm cái đã qua sử dụng” ấy diễn ra công khai trước mắt mọi người, mặc cho rất nhiều phản ứng, phê phán kể cả to tiếng, Hai Nhớp chẳng chày cối phân bua làm gì cho phiền, cứ lẵng lặng làm cái việc mà mình dứt khoát là đúng với lý lẽ rất căn cơ: “Cả nhà tui cũng eng chung thẩu mắm đó rứa mà, méc mớ chi mô…”. Đúng chẳng “méc mớ chi mô” thật. Bằng cớ là dẫu có biết rằng mình đang ăn vào bụng loại bánh đúc chấm mắm cái mất vệ sinh nhất trong lịch sử hàng quán, ở cái quán mất vệ sinh nhất thế giới ăn hàng bỏ chợ, nhưng còn làm bộ làm tịch với ai đây giữa nước non này, khi cái sự thèm lạt lên ngôi, không cưỡng lại nổi với nó, không thể chống lại sức quyến rũ chết người của miếng ăn. Nên nói chi thì nói, mất vệ sinh cũng được, bẩn thỉu cũng được. Đã chết ngay tại chỗ thằng nào con nào trong quán Hai Nhớp đâu mà phải dè chừng. Chúng tôi cứ an nhiên tự tại mà ăn, mà ghi sổ để đời, mà: “Thôi! Ra quán Hai Nhớp ăn bánh đúc hè!” Rứa là đi, rứa là xăng xái đến với thế giới riêng tư tự do thoái mái nhất dưới gầm trời này của chúng tôi để ăn, để chuyện trò đã đời và hát những bài hát cũng thèm thuồng không kém hành hạ kêu đòi. Để được còn thấy mình nguyên vẹn một niềm lạc thú yêu sống đúng nghĩa, dầu rằng cái nghĩa lý ấy đã bị giảm giá ít nhiều trước một dời đổi không do một ai trong chúng tôi được quyền định đoạt, kể cả số phận của chính mình. “Quán Hai Nhớp của chúng tôi” đình đám suốt một thời gian dài. Thương hiệu được bảo chứng không chỉ riêng cho khu vực công nhân mà còn danh giá tiếng tăm ra tới ngoài thị trấn An Tân phố chợ. Nó thỏa mãn xoa dịu những cơn khát thèm vô tội vạ của tuổi trẻ Mỏ đá Chu Lai những năm sau 1975 nhiều gian khó. Cả đất nước vừa thoát ra khỏi cuộc chiến hai thế kỷ ròng rã tên bay đạn lạc. Sự đói nghèo hiện hữu trên từng khuôn mặt người, trên từng ngóc ngách của đời sống. Phải gắng sức lên thôi. Ai cũng tự dặn lòng an ủi vậy. Thôi! Đã được hưởng cảnh đất nước yên bình, còn mong gì hơn nữa? Những người còn sống hôm nay là những hạt gạo trên sàng quý giá và phúc phận. Chút túng khó bước đầu là tất yếu của quy luật phát triển, rồi ra mọi sự sẽ tốt đẹp hơn. Bên cạnh hậu họa của tang thương mất mát là những đổ vỡ cần phải hàn gắn. Từng con người đứng trước những thách thức vượt quá sự chịu đựng mà chỉ có mỗi một lựa chọn hay nói cách khác là đã được cuộc sống lựa chọn giúp rồi, ta chỉ vậy mà an tâm đi tới trên con đường đã được hoạch định. Nuôi dưỡng niềm tin trong sáng ấy, chúng tôi đã cười đùa và ca hát, đã lăn lưng phơi mặt tưới từng giọt mồ hôi ấm nóng tình đời để được sống và làm việc, một công việc quá nhiều ý nghĩa cao quý và một cuộc sống ước mơ ở thì tương lai chờ đón. Nhờ vào tâm thế ấy và cũng mang tâm thế ấy chúng tôi bay trên đôi cánh tuổi trẻ mang nhiều dự phóng vào ngày mai sáng lạn. Cái “Ngày mai” đẹp đẽ huy hoàng cứ mải mốt chạy về phía xa xăm chẳng đếm xỉa gì đến những kẻ đeo đuổi theo nó trên một hành trình vô hạn định. Tuy vậy, nơi cái xó trời đất hoang vu này chỉ giàu có mỗi nắng mưa và gió, những ngọn gió từ biển thao thiết réo gào từng khi biển động, đem cái lạnh thấu xương ban tặng hào phóng cho từng tấm hình hài trai trẻ, làm bừng thức cơn đói thèm đêm đêm không ngủ, đêm đêm lại rủ rê về những giấc mơ ngon, tiếng chép miệng giòn vang trong khuya vắng từ giường ngủ đồng đội cứ nhắc nhở gọi mời, trêu đùa vào bụng dạ sôi réo làm đầy lên những nỗi niềm buồn tủi. Lâu lâu, đói, thèm mà vô phương giải quyết vì đêm đã chìm vào tĩnh lặng. Tôi thầm thĩ ngâm mấy câu thơ tình cho đỡ nhớ cái ăn. Thằng Chỉnh càu nhàu trở mình, thằng Trọng lé mất ngủ đổ quáu: - “Bớ xồm bớ lốp! Eng không có eng còn bày đẹt yêu! Kẹt họ!” Tam Kỳ - khuya cuối đông Nguyễn Đức Dũng
Câu thơ tình của ai đó mà tôi đọc được từ
trang tạp chí cũ hồi còn ở Mỏ đá Hòn Giang vào mùa đông năm 1975. Song chuyện
dưới đây lại là thứ “nhu cầu” khác, bức thiết hơn, hồng hoang hơn của những đòi
hỏi con người. Dân Miền Trung chúng tôi gọi là “Thèm”. Thèm ăn thèm uống, là
đói cơm lạt muối. Đó là loại nhu cầu mang tính vật chất, đáp ứng những tiêu
chuẩn cần thiết cho điều kiện sống của một con người, nó mang nỗi niềm của da
thịt, nó hàm súc triết lý của dạ dày, nó thúc hối dằn vặt và xéo dày ruột gan,
nó đủ quyền phép làm cho con người có thể rơi vào cảnh huống tồi bại và hèn
kém. Tục ngữ có câu “Khi đói đầu gối phải bò…”. Thèm muốn là một cảm giác cám
dỗ đầy cạm bẫy, có thể đẩy con người vào bi kịch khi không đủ bản lĩnh để kìm
nén cơn kêu đòi dung tục. Ăn uống, ngủ nghỉ và yêu đương xác thịt là nỗi thèm
khát bị nguyền rủa truyền đời, đeo đuổi rình rập những khi ta yếu mềm lòng dũng
khí. Hoàn toàn khác với nhu cầu tinh thần đẹp đẽ mà câu thơ hướng tới.
Kết cấu địa chất khoáng vật của núi đá Chu
Lai cũng lạ. Cả một mạch núi nhưng không như ở mỏ Phước Tường – Đá kết tầng.
Dạng vật chất kết cấu theo lớp lang, tầng bậc, rất dễ khai thác. Đá Chu Lai là
một khối hoa cương cấp I khổng lồ. Siêu cứng, lấp lánh những phần tử hạt dưới
nắng trời như ánh kim cương, như những vì sao nhấp nháy lung linh trong đêm
tối. Ta cứ hình dung cả dãy núi mênh mang kia là một thực thể đá mồ côi được
sinh ra trong quá trình vận động hình thành lớp vỏ trái đất. Nó tạo nên một
mạch núi đá liên hoàn và liền khối. Thời trước, tập đoàn RMK của Mỹ đã tổ chức
khai thác. Đây là mỏ lộ thiên có trữ lượng tương đối lớn, kế hoạch khai thác
hàng trăm năm, tính từ thời thực dân Pháp sang ta. Sử dụng cho xây dựng cơ sở
hạ tầng, mở mang đường sá, cầu cống…
Sản
xuất đá thủ công hoàn toàn bằng sức vai u thịt bắp của tuổi trẻ cộng với nhiệt
huyết tin yêu cuộc sống mới. Chúng tôi ào ào xông pha vào khó khăn gian khổ của
công việc lao động khổ sai mà hân hoan như một dạo chơi, thụ hưởng những giá
trị cao đẹp của cuộc đời. Một ý niệm vinh quang đặt bày tô vẻ quàng vào nghĩ
suy của lớp tâm hồn mới. Phơi phới lý tưởng. Khao khát sớm trở thành những công
dân hữu dụng. Đóng góp nhiều nhất công sức tâm lực hòng xây dựng quê hương giàu
đẹp, đất nước phồn vinh và cuộc sống thiên đường có thật dưới ánh mặt trời.
Trong môi trường ấy, sức người đổ ra mỗi
ngày mỗi giờ giữa công trường không thể cân đong đo đếm nổi. Chỉ phản xạ sinh
lý thường trực cho phép con người nhận thức được rằng mình đang tồn tại và
chiến đấu. “Chiến đấu” chứ không phải “làm việc”. Ta phải luôn dung dưỡng trong
tâm trí mình sức đề kháng mãnh liệt nhất có thể để chống chọi lại với cái đòi
hỏi bản năng trần tục từng giờ từng phút. Sự thèm thuồng. Nhu cầu muốn được ăn
uống. Muốn thỏa mãn cơn co thắt của gan ruột và phản ứng bài tiết dịch vị của
vòm miệng. Sự thèm ăn ám ảnh cả vào trong giấc ngủ. Ban ngày đổ tống tháo sức
lực ra với xà beng búa tạ, với gióng gánh cuốc xẻng, vậy mà đêm đêm, lứa trẻ
trai mười tám đôi mươi chúng tôi gặp toàn những giấc mơ ngon. Tuổi đương độ
phát tiết anh hoa chung sống vui đùa bên những cô gái xinh tươi ngon giòn con
mắt mà hiếm hoi những mộng mị đẹp. Năm thì mười họa mới có được bữa liên hoan
bồi dưỡng khi sơ kết quý hoặc sáu tháng kế hoạch. Lúc đó mới nghe được vài thậm
thụt nhỏ to ngoài bãi đá vào giờ giải lao: “Hồi hôm tau bắn máy bay…!” Môt
khoái cảm điều tiết tự nhiên rất người mà mất hút giữa giai đoạn sung mãn nhất.
Nó như thứ van xả tự động của một nồi hơi khi bị nén quá đầy. Than ơi! Chúng
tôi những năm tháng đẹp đẽ nhất của một đời người vậy mà mấy khi được lèn nén
để mong bật xả…
Để giải tỏa nỗi thèm thuồng bu bám luôn
dày vò. Những câu chuyện kể về món ăn ngon, những bữa ăn no đầy đã chìm khuất
từ hồi tu huýt tu lai nào đó lại được đào xới lên, dọn ra bày biện chi li lại
cho nhau thụ hưởng. Hâm nóng ký ức ngon miệng ấy mà cảm nhận dịch vị đang lén
lút đẫm ướt vòm họng. Sợ bè bạn trêu cười, thỉnh thoảng có đứa lại tìm cớ quay
mặt về hướng khác, như thể đang làm một việc gì đó bất chợt nghĩ ra. Nhưng tất
cả chúng tôi đều biết tỏng rằng bạn mình vừa giấu đi một lần nuốt nước miếng.
Quy luật cung cầu lại tìm cách nảy nòi.
Mỗi đội sản xuất vài trăm công nhân lao động. Với đồng lương chỉ mang tính ví
dụ vậy mà rồi cũng có người biết chắc bóp để xoay xở sinh lợi. Ban đầu chùng
lén thăm dò, sau không thấy cấp trên có ý phê phán gì nên mạnh dạn công khai.
“Bung ra” làm ăn bài bản hẳn hoi. Những tay “Cơ hội” lanh lẹ ấy tranh thủ từng
thời gian nghỉ hiếm hoi liên hệ ngoài chợ thị trấn An Tân lấy hàng về bán lại cho
anh em trong đơn vị. Chủng loại không lấy gì làm phong phú vì chưa “trường
vốn”. Song chỉ vài mặt hàng “nóng” thôi mà đã giải quyết được biết bao nhiêu
cái miệng háu ăn giữa thời buổi khủng hoảng dinh dưỡng trầm trọng ấy. Ngoài hai
mặt hàng chủ lực chạy nhất là bánh chưng nhưn thịt heo mỡ và kẹo đậu phụng.
Những “Đầu nậu” này còn “kinh doanh” thêm đường bát, thuốc lá và vài loại nước
ngọt có ga. Một loại hàng hóa nữa cũng đã được dấm dúi tuồn vào nhưng phải bán
chui và chỉ dành riêng cho “khách ruột”. Nghĩa là dạng bạn hàng cực kỳ “uy
tín”. Uống rượu mà không để cho người khác phát hiện ra mình vừa lai rai vài ly
ba xi đế. Có cho thêm vàng cũng đố đứa nào dám ăn gan hùm mật gấu mà để người
ta thấy mình say rượu! Sợ kỷ luật. Từ khi xuất hiện mấy cái “Quán” tài tử này
thì hầu như đám trai trẻ chúng tôi không còn biết đến tiền là gì nữa. Tới tháng
nhận lương, chủ quán “bắt tay” với tài vụ xử lý nhanh gọn khoản “thu nhập gọi
là” sau cả một tháng trời trần lưng ngoài bãi đá mặc cho mưa nắng đỏng đảnh
thất thường. Từng đoàn công nhân xếp hàng dài chờ vào văn phòng Ban chỉ huy để
ngoáy một phát vào cái ô hình chữ nhật bé tẹo trong sổ lương đơn vị là xong!
Mọi thừa thiếu được “lũy kế” vào cuốn sổ nợ đời trong tay chủ quán. Thường thì
thiếu lại chút ít. May mắn lắm mới gần trùng khít với khoản lương được nhận.
Lâu lâu, đứa nào được giải quyết cho phép về thăm nhà thì cả nhóm bạn chơi thân
với nhau phải quyết tâm cao độ, ăn nhín nhịn thèm, tránh trớ hàng quán như
tránh bệnh dịch, dứt khoát hạn chế ghi sổ
dành lại chút ít chung vào để bạn có đủ tiền tàu xe và “quà bánh đại
khái” cho một chuyến thăm nhà. Cứ thế mà xoay vòng, cho nên cả năm trời mới có
dịp về thăm cha mẹ anh em ruột thịt đôi ba bữa. Cũng do vậy mà truyền miệng câu
nói vui: “Tăng xin giảm mua hút tuyệt đối
để đi đến giai đoạn xin toàn diện”. Một cách phê phán nhẹ nhàng những ai ky bo
chuyên chôm chĩa lợi dụng sự hào phóng của người khác, mà cũng vừa tự chế nhạo,
dặn dò mình bớt tiêu pha vung phí.
Có vài tay “khôn lõi” không thèm “mở
quán”. Phần sợ khó thu hồi vốn phần nhát
gan không dám kinh doanh, thương trường là chiến trường kia mà, người xưa đã
từng dạy rồi, lơ tơ mơ chỉ có nước “sạt nghiệp”. Đó là những tay có sẵn máu đỏ
đen di truyền. Cờ bạc thì dứt khoát chẳng ai dám nghĩ tới rồi, song mưu ma chước
quỷ ở đầu óc của hậu duệ Đổ Bác lại sáng tạo ra được vài hình thức mới. Ăn thua
rất cay cú nhưng khó có thể quy trách nhiệm để xử lý kỷ luật. Đó là các kiểu cá
độ. Ban đầu cũng do mấy thằng “hẻo” quá khơi mào. Những đứa ăn nhiều, ăn không
biết no. Nhỏ người mà lớn bụng. Lại hay đau ốm vặt, sức khỏe kém nên lương
thấp. Cảm giác đói thèm vô phương chữa trị. Mấy tên này đương nhiên được xếp
loại “Tín nhiệm thấp” chót bảng. Không được chủ quán để mắt tới chào đón như
những “thượng đế” khác. Thường xuyên chầu rìa góp chuyện vặt quanh những bữa ăn
bồi dưỡng của đồng đội. Mắt hau háu nhìn vào từng miếng cắn miếng nhai của mọi
người mà nói tầm phào, chẳng đâu vào đâu, cốt để lấy cớ nhìn người ta ăn cho đỡ
thèm. Nhân nói vu vơ ấy mà nuốt nước miếng. Thông điệp thường xuyên như một thứ
phép màu của mấy tay này là chuyên thách độ:
-
“Ơ! Tau có thể ăn
gọn một cặp đường đen…”
-
“Tau có thể xơi
tái 5 phong lương khô 701…”
-
“Tau có thể giải
phóng 5 cặp bánh chưng..”
-
“Ơ! Tau có thể …
một gói kẹo đậu.v.v. và v.v…” Đứa mô dám độ không?
“Nhỏ người to con mắt” là kiểu ví von của
ông bà mình ngày xưa nhằm chê trách những kẻ háu ăn. “Vào độ” thua sặc máu
nhưng còn biết cách nào? Ký sổ không được! Vay mượn không xong mà cái sự thèm
kia nó bất kể chi nhướng, không biết tự lượng thân phận bọt bèo. Mà không biết
cái thứ nước miếng khốn khổ đó ở đâu ra mà nhiều đến thế, cứ đầy ứ miệng mồm
làm tình làm tội. Đành mặt dày mày dạn cố đấm ăn xôi, rồi ra kệ thây hậu họa,
cùng lắm thì chịu trận cho chủ quán nó chửi bới chán chê rồi cũng qua một quận.
Vậy là độ. Lúc đầu thì độ ăn bánh chưng, vừa no vừa béo, thanh toán cơn thèm
lưu cửu hành hạ đêm ngày. Mức khởi điểm như người ta tổ chức đấu thầu là 5 cặp
bánh chưng. Đa số chào thua khi lột vỏ cái bánh thứ năm, nghĩa là chưa giải
quyết trọn vẹn 3 cặp bánh, thế là thua độ, phải chịu trả tiền mức phạt gấp đôi
số thách độ ban đầu, cũng có nghĩa là phải chịu ghi nợ chủ quán 10 cặp bánh
chưng để dành cho mấy tay “Thầu độ” ăn dần không mất tiền. Tôi là một trong số
không nhiều những tên thua độ ở cặp bánh thứ tư. Trợn mắt nín thở để giữ cho
khỏi mửa trào ra ngoài phần mình vừa ngốn qua cửa miệng. Cầm cái bánh thứ bảy
lột vỏ mà nước mắt lưng tròng. Trước mắt mình không còn là cái bánh chưng đầy
cám dỗ vẫn hằng mơ ước mà là một hình khối chữ nhật bằng nếp nấu nhuyễn có các
số đo thể tích 8cm x 8cm x 4cm đầy trêu cợt và mai mỉa. Giới hạn thời gian quy
định nghiệt ngã của trận đấu đã gần hết hạn. Thế là thua, là chung độ trong sự
nhục nhã ê chề vì miếng ăn đầy tủi hổ.
Mức thách 5 cặp bánh chưng dừng lại khá
lâu, biết bao nhiêu hảo hán đành cúi đầu khuất phục. Những tay thầu độ vênh váo
cậy tiền khinh người ra mặt. Vậy mà một chiều, khi công nhân đang tắm rửa sau
buổi làm mệt mỏi ở những cái giếng nước tự đào quanh xí nghiệp, bỗng dậy lên
tiếng hò reo vang động một góc trời. Té ra bên đội 2 đã xuất hiện anh hùng cái
thế. Chàng ta dõng dạc tuyên bố sẽ giải phóng gọn 10 cặp bánh chưng sau thời
gian dài náu mình im tiếng. Trời đất ơi! Vậy mà anh ta đã thắng. Một chiến
thắng vinh quang vỗ mặt mấy tay thầu độ cậy thế hiếp người. Hay tin, cả rừng
người tụ tập trước sân xí nghiệp, ai nấy đều nghe hả lòng hả dạ, tung hô khen
ngợi không tiếc lời, kẻ đã rửa được mối hận thèm ăn thua độ của mấy trăm con
người ôm nỗi hờn căm nuốt cay đắng vào lòng, vừa mất tiền vừa chịu tiếng đời
thị phi báng bổ bấy nay. Thói thường ai cũng khó ưa những tay thầu độ, như tâm
lý ghét người giàu có hợm hĩnh của kẻ nghèo hèn. Song ông trời lại quen thói
phù thịnh chớ chẳng phù suy, nên chi ngậm ngùi kia của lực lượng thèm ăn kìm
nén lâu ngày nay được dịp bùng vỡ, một hạnh phúc lạ lùng xoa dịu niềm thống khổ
trầm luân đè nặng biết bao đầu xanh tuổi trẻ. Chàng trai lâu nay vốn vô danh
tiểu tốt, không một chút tài vặt thời thượng như mọi người, chìm khuất vào đám
đông câm lặng, bỗng chốc đổi đời. Sự nổi tiếng đã đem lại niềm vui lớn cho
không chỉ riêng anh, anh trở thành bạn bè thân thiết của cả xí nghiệp. Sau kỷ
lục bánh chưng, kỷ lục kẹo đậu phụng, kỷ lục lương khô cũng lần lượt xuất hiện
và thi thoảng bị phá vỡ. Nhưng có một kỷ lục lạ đời chắc chắn rằng chỉ Việt Nam
mình mới có. Đó là kỷ lục đập đá tảng bằng búa tạ…
Để phong phú thêm hình thức thi đấu nhằm
tăng phần thú vị hấp dẫn trong các cuộc tranh tài. Giới thầu độ nghĩ ra được
nhiều cách gầy độ và “gài độ” hiểm hóc, làm điêu đứng dân chơi thèm ăn cay
đắng, những trận thua xiểng liểng tức mửa mật. Kỳ lạ ở chỗ là bầy thiêu thân
vẫn không hề biết sợ, danh sách “tử trận” cứ nối dài theo những trận cười nói
hò reo vang động công trường. Những bàn bạc trao đổi phương cách thi đấu được
truyền tai nhau. Cũng bày ra chiến thuật chiến lược đấu sách hẳn hoi mang tính
“có nghề” phù hợp cho từng trận giao tranh nảy lửa. Kinh nghiệm về cách ăn như
thế nào để giảm no, giảm ớn được đề ra. Làm thế nào để chống lại cơn co thắt
nôn mửa khi thức ăn đã tràn lên cổ? Tắm trước hay tắm sau khi thi đấu v.v. và
v. v…Cũng đã gặt hái được kết quả hữu hiệu. Nhưng sự ranh ma quỷ quyệt của đối
phương cũng chẳng hề thua kém. Những ràng buộc về thể thức thể lệ thi đấu được
bổ sung liên tục để phù hợp với tình hình “chiến sự” diễn ra ngày càng éo le và
khốc liệt. Để cổ súy phong trào, tập thể đã phân hóa hình thành rõ rệt lực
lượng giữa hai giới tuyến. Giới thầu độ và đám chủ quán ăn theo tuy ít ỏi thành
viên nhưng lại nắm quyền sinh sát trận địa. Ngược lại, nguồn cổ vũ lớn lao và
niềm cảm mến sẻ chia “chiến hữu bị loại khỏi vòng chiến đấu” đã hâm nóng gắn
kết tình đồng đội của đông đảo phe bại trận. Danh sách các loại hình thách độ
quái chiêu đã xuất hiện thêm những kiểu độ nực cười. Độ đục lỗ bắn mìn xem cặp
thợ nào đục nhanh hơn, năng suất hơn. Độ đập đá 4x6 bằng búa con 1kg sau thời
gian quy định xem ai có khối lượng sản phẩm cao hơn. Độ đọc thơ, ca dao bắt
vần. Siêu nhất là vụ độ răng, giả hay thật, quả này đã làm điêu linh biết bao
nhiêu tay hiếu kỳ phải ôm hận ngậm bồ hòn làm ngọt. Cho đến tận bây giờ dầu sự
việc xảy ra đã gần 40 năm rồi, mà nghi án vẫn còn treo lơ lững. Chẳng biết cuối
cùng rồi hàm răng đẹp đẽ, đều tăm tắp và trắng ngà ấy của anh Dũng là răng thật
hay răng giả…?
Trong kỹ thuật khai thác đá thủ công,
người ta cho phép sử dụng một lượng thuốc nổ phù hợp để dùng vào những trường
hợp gặp tảng đá nhỏ, không đủ điều kiện để đục lỗ bắn mìn. Định lượng thuốc nổ
tuy vừa phải nhưng cũng không đạt chỉ tiêu tiêu hao vật liệu nổ quy định. Đó là
phương pháp đánh mìn “Ốp”, tức kẹp khối thuốc nổ vào một điểm phù hợp, nổ tác
động để làm nứt vỡ tảng đá ra cho công nhân dùng búa tạ tiếp tục đập thành đá
hộc 25x30. Từ khi có “chiêu” độ đập đá tảng, rất nhiều tay nghề đã được nâng
lên, người ta tìm kiếm biện pháp tối ưu nhất để thực hiện những ràng buộc hết
sức hóc hiểm của cuộc đua tài. Ngoài giá trị vật chất là bánh chưng, lương khô,
kẹo đậu v.v… thì tính tự ái của người thợ khai thác đá trước anh em đồng đội
cũng đã bị thách thức. Thua độ không chỉ đơn giản là thua phần bánh quà đã giao
kèo, mà còn có nghĩa chứng tỏ mình tay nghề kém cỏi trước bàn dân thiên hạ,
những đồng đội đồng nghiệp luôn chung cùng mưa nắng vui buồn, danh dự nghề nghiệp
bị tổn thương, ai mà chịu cho được. Vì vậy, những cuộc độ đập đá tảng luôn thu
hút đông đảo khán giả, tất cả đến để xem cho vui và cũng đến để học hỏi kinh
nghiệm của nghề nghiệp. Trong đông đảo tay chơi này, có khoảng chục người xứng
đáng với sự kính phục của tập thể. Đó là những anh lớn tuổi, vào khoảng trên
dưới 30, anh Phạm Hưng, tổ trưởng tổ tôi là người được toàn công trường ngưỡng
mộ. Vốn là một Hạ sỹ quan Quân Vận, bị bắt làm tù binh vào năm 1972, được học
tập cải tạo trên Trường Sơn, sau giải phóng anh được bố trí về tham gia Công
trường Đường Sắt Quảng Nam – Đà Nẵng. Phạm Hưng người thấp đậm, vạm vỡ, giỏi
võ, tính tình trầm lặng, chuẩn mực và tốt bụng, hay giúp đỡ mọi người. Anh
không bao giờ tham gia vào những trò nhố nhăng cá độ, chỉ đơn giản “Giữa đường
thấy việc bất bằng mà tha”. Khi gặp những cuộc độ có tảng đá quá lớn, thể tích
hơn nửa mét khối, mặt tiếp xúc oái ăm, không có điểm để đập búa, thường thì đó
là những tảng đá to tròn bị bỏ lại vì không mấy ai có thể đập nổi. Trong khoảng
15 phút giải lao giữa buổi làm việc, những tay thầu độ treo giá rất cao để lôi
kéo những thằng tay mơ hám ăn vào tròng, việc thua độ đã sờ sờ trước mặt. Lúc
ấy anh Phạm Hưng lặng lẽ vác chiếc búa 10kg của mình bước đến giải quyết giúp
vụ việc, chỉ trong vòng 10 nhát búa hoặc 10 phút quy định tùy theo thỏa thuận
của hai bên. Anh nhẹ nhàng điều khiển tay búa điệu nghệ. Cả công trường nín
thở, không khí ngột ngạt bao trùm. Bục! bục! bục… cạch! cạch…! tảng đá kiêu kỳ
thúc thủ vỡ toác ra sau một tiếng nổ khô gọn. Cả một khoảng bãi tưng bừng tiếng
hò reo vang dội, người ta nhào tới bắt tay, cảm ơn rồi công kênh anh như một
anh hùng. Cũng điềm đạm và lặng lẽ như vốn tính trời, Phạm Hưng khiêm tốn từ
chối niềm “vinh quang bánh kẹo” trở về vị trí của mình, rời xa nơi vừa là một
cuộc đấu trí lực đầy căng thẳng. Những lúc vắng im, anh em ngồi với nhau, anh
Hưng chỉ vẻ cho những ngón nghề độc đáo. Sở dĩ anh không bao giờ chịu chào thua
những tảng đá đầy thách đố ấy, là vì anh biết cách vận công, điều khí, thở sâu,
tập trung khí vào huyệt đan điền dưới bụng, đôi tay cầm búa uyển chuyển, khi
lơi khi chặt nhất nhất tuân thủ từng giây phút vận hành cơ năng để ra đòn. Anh
bảo: “Như người võ sỹ xử dụng binh khí, phải biết hợp nhất giữa con người và
binh khí vào lúc quyết định để tăng công lực, người ta thường bảo nhân kiếm hợp
bích là vậy…” Quả thật, từ bài học được anh chỉ giáo, tôi tuy nhỏ con gọn người
nhưng sau này cũng đã trở thành một công nhân đập đá không có đối thủ ở những
đơn vị mới, tôi chưa từng chịu thua bất cứ một tảng đá to tròn nào khi đã quyết
định ra tay với nó.
Bây giờ bạn bè cà phê cà pháo bù khú cả
ngày cả buổi với nhau là chuyện không vấn đề, chớ thời ấy đối với chúng tôi “Cà
phê” không có trong từ điển của mỗi thằng con trai đôi mươi phơi phới. Ăn!
Đúng. Chỉ béo và ngọt mới là mối quan tâm “đầu hàng” đòi hỏi luôn ở trong nhớ
nghĩ. Chả bao giờ nghe đứa nào rủ nhau ra An Tân để uống cà phê cà pháo chi cả.
Có mà điên! Mỗi tháng 4 chủ nhật thì mất 2 cái chủ nhật lao động xã hội chủ
nghĩa rồi. Đó là tính những tháng làm việc bình thường chớ nếu vào chiến dịch
thì “Thèng mô con mô núa chủ nhựt? Chỉ mẹt tau coi thử? Thứ tốm chớ!”. Hai chủ
nhật được nghỉ chỉ quanh quẩn trong xí nghiệp, ai muốn ra thị trấn chơi phải
xin phép và được sự đồng ý của Phân hội trưởng Thanh niên hoặc Tổ trưởng sản
xuất. Mà ra chợ cũng chẳng để làm gì, đã vài lần ghé vào quán cà phê nhâm nhi
trông sành điệu đấy nhưng cái ngon của thú thưởng thức cà phê nó quên mình mất
rồi. Lang thang vài lần. Chán. Ở nhà chơi có khi hay hơn vì còn bạn bè đồng
đội, tào lao xịt bợp hoặc giã hát hò với nhau cũng nghe khí thế. Ra thấy “người
ta” ngẫm lại thân phận mình nó sao sao ấy! Cuối cùng rồi trời ta ta ngồi đất ta
ta đứng, chẳng phải nghĩ ngợi nhiều. Rối!
Cả 4 đội sản xuất “châu tuần” quanh xí
nghiệp có đâu chừng sáu bảy cái “Amateur Quán”, không đủ nội lực để phục vụ cho
một lượng khách quá sức đông đảo. Tuy vậy, hình thức “kinh doanh” này chỉ phát
huy được vụ ký sổ. Tức là mua chịu nợ thoải mái đợi đến kỳ lương rồi tính! Còn
“nhu cầu thoải mái” đúng nghĩa để tận hưởng cái thú “tiêu tiền” thì lại hiềm
rằng “xa xỉ”, hầu như “viển vông”. Mỗi công nhân được bố trí một giường ngủ cá
nhân, giữa hai giường là lối đi nhỏ. “Tư trang gia sản” tất cả cất giữ trong ba
lô hoặc cái thùng gỗ vốn đựng thuốc nổ để đánh mìn, một dạng “rương hòm” rất
hiếm quý, chỉ có bọn “đẹp người đẹp nết” hoặc giỏi làm thân với “trên” mới sở
hữu được. Nó tiện dụng ở chỗ có thể khóa lại để bảo vệ được “tài sản” riêng tư.
Tất tần tật đều phải xếp đặt gọn gàng trong không gian thuộc quyền “sổ đỏ” của
mình, vì vậy mà việc “giao thương” cũng xem ra hơi bất tiện. Thỉnh thoảng để
đổi gió và trốn đi hát nhạc “trước 75” cho nhau nghe, chúng tôi mò ra cái quán
duy nhất của dân sở tại ngay đầu con đường độc đạo từ Quốc lộ I dẫn vào công
trường. Từ nơi này đến khu tập thể chúng tôi cách một tầm hú gọi, đủ an toàn
cho những riêng tư lén lút, tránh sự quản lý theo dõi của Ban chỉ huy và “tai
mắt” dòm ngó đáng phải kiêng dè. Cả một vùng đồng không mông quạnh do ngày
trước phải di dời trắng vì khu quân sự Phi trường Chu Lai của quân đội Mỹ. Sau
giải phóng chẳng hiểu sao lại chỉ mỗi một ngôi nhà dân nằm hiu quạnh ở chốn
này. Để vào quán, bạn phải đi qua một con đường nhỏ sát chuồng trâu quanh năm
lầy lội vì phân chảy tràn ra ngoài. Cái thứ nhèm nhẹp nồng khai lưu cửu sền sệt
xanh đen bỏ đi của trâu bò theo chân thực khách vào đến trong nhà. Đó là một
thực thể gọi là “Nhà” được vá víu bằng đủ thứ vật dụng và “vất liệu”. Cả không
gian ẩm mốc vì u tối, nóng hầm hập, mái nhà sùm sụp trên đầu vì quá thấp. Chen
chúc trong cái gọi là nhà ấy là một gia đình hơi kỳ dị, người chồng đầu luôn
cạo trọc, nước da gầy xanh khó đoán tuổi, ước chừng khoảng giữa của ba hay bốn
chục gì đấy. Lúc nào cũng thấy anh luôn khom cúi người có lẽ do phản xạ tự
nhiên, tay chân lóng ngóng vụng về. Chẳng mấy khi nghe anh trò chuyện ngoài vài
tiếng ừ hử lấy lệ lúc khách hỏi thăm một điều gì đó. Sự “Khai sinh” và “Thương
hiệu” của cái quán này đúng là sáng tạo nghệ thuật của một đầu óc phong phú
tưởng tượng, xứng đáng xếp vào hạng “Thiên tài”. “Quán Hai Nhớp”. Chẳng ai biết
được người chủ nhà tên gì, để cho phải phép, chúng tôi gọi là “Anh Hai” vì anh
lớn tuổi hơn đám lau nhau chúng tôi rất nhiều. Sau ai đó phong thêm cho cái tên
đặc hiệu nói trên vì sự tinh túy của cung cách làm ăn và chất lượng hàng hóa mà
anh đang kinh doanh phục vụ. Hai Nhớp vô tư đón nhận danh hiệu cao quý từ trên
trời rơi xuống chẳng chút tự ái giận hờn hay tỏ vẻ khó chịu, Anh thuận lòng sự
đặt để ấy như rằng nó đúng chính là của anh, chỉ anh chứ không phải bất kỳ một ai
khác được phép xâm phạm bản quyền. Bên cạnh Hai Nhớp là cái bóng của bà chủ nhà
cỡ ngoài 30 có vẻ bệnh hoạn, nước da vàng vọt, khuôn mặt bủng beo mà đầy chịu
đựng, cứ loay hoay trong bếp. Có bốn đứa trẻ vừa trai vừa gái mũi dãi lều phều
và cóc ké sài đẹn treo trên người những tấm vải nhàu cũ cáu bẩn trước đó được
gọi là quần áo, phất phới chạy nhảy lung tung trong cảnh giới ấy cho thấy còn
chút sinh khí của sự hoạt động. Quán bán những món hàng vặt vãnh quen thuộc,
mấy gói kẹo đậu phụng, một lọ thủy tinh đầy vết dấu tay đựng kẹo ú, xâu bánh
chưn treo tòong teng bên cửa sổ, chồng bánh tráng đựng trong bao nilon vàng
đục. Dưới nền nhà nhớp nháp dựng vài chai nước ngọt hình như đã quá hạn sử dụng
vì nắp ken rét rỉ. Trong tủ lưới bé nhỏ vẹo vọ móc hờ một ổ khóa chắc để “phòng
người ngay” chỏng chơ mấy gói thuốc lá rẻ tiền, chồng thuốc rê đen được cắt
miếng vuông vắn. Sát góc tủ là cái can nhựa cũ kỹ đựng rượu Quảng Ngãi. Thứ
rượu được cho rất nặng đô và khó nuốt vì bị pha chế thêm nước lạnh cộng với
lung tung các thứ độc hại để kiếm được nhiều tiền lời. Điều đặc biệt lôi kéo
khách hàng ở cái quán này là bánh đúc. Vợ Hai Nhớp loay hoay dưới bếp để làm
bánh trong mấy cái rỗ tre, mẹt tre và kể cả mấy cái bịt mõm bò lót lá chuối.
Bánh làm bằng gạo đỏ, hấp trong cái thùng tole móp méo dưới căn bếp lộn xộn
thau chậu soong nồi và bù hóng mạng nhện. Khi có khách vào ăn, bánh được cắt ra
thành từng miếng xinh xắn tùy theo giá tiền bởi một con dao bạ đâu vất đấy, Hai
Nhớp ngó dáo dác tìm lấy dao rồi quẹt đại vào bất kể thứ gì trong tầm tay, coi
như chùi cho sạch trước khi cắt. Đôi tay bẩn thỉu bốc mấy lát bánh bỏ vào một
cái dĩa nứt rạn rồi đặt lên bàn trước mặt những “thượng đế” lúc nào cũng sẵn
đói thèm, Hai Nhớp múc mắm cái trong một thẩu nhựa vo ve ruồi nhặng đổ vào một
cái chén đất, hai ba người cùng chấm chung chén mắm ấy, nếu có ai kỹ tính lắm
thì đem thêm chén lên để khách ăn riêng. Kinh khủng nhất là những chén mắm cái
còn sót lại khi khách ăn xong, tất cả đều được Hai Nhớp dùng chiếc đũa tre mốc
xì vớt lọc bỏ những vụn bánh nằm lẫn trong mắm rồi vét sạch vào cái thẩu đựng
để ở trên bàn, đợi múc ra bán tiếp cho những “Thực khách” quý hóa đến sau. Lối
“quay vòng mắm cái đã qua sử dụng” ấy diễn ra công khai trước mắt mọi người,
mặc cho rất nhiều phản ứng, phê phán kể cả to tiếng, Hai Nhớp chẳng chày cối
phân bua làm gì cho phiền, cứ lẵng lặng làm cái việc mà mình dứt khoát là đúng
với lý lẽ rất căn cơ: “Cả nhà tui cũng eng chung thẩu mắm đó rứa mà, méc mớ chi
mô…”. Đúng chẳng “méc mớ chi mô” thật. Bằng cớ là dẫu có biết rằng mình đang ăn
vào bụng loại bánh đúc chấm mắm cái mất vệ sinh nhất trong lịch sử hàng quán, ở
cái quán mất vệ sinh nhất thế giới ăn hàng bỏ chợ, nhưng còn làm bộ làm tịch
với ai đây giữa nước non này, khi cái sự thèm lạt lên ngôi, không cưỡng lại nổi
với nó, không thể chống lại sức quyến rũ chết người của miếng ăn. Nên nói chi
thì nói, mất vệ sinh cũng được, bẩn thỉu cũng được. Đã chết ngay tại chỗ thằng
nào con nào trong quán Hai Nhớp đâu mà phải dè chừng. Chúng tôi cứ an nhiên tự
tại mà ăn, mà ghi sổ để đời, mà: “Thôi! Ra quán Hai Nhớp ăn bánh đúc hè!” Rứa
là đi, rứa là xăng xái đến với thế giới riêng tư tự do thoái mái nhất dưới gầm
trời này của chúng tôi để ăn, để chuyện trò đã đời và hát những bài hát cũng
thèm thuồng không kém hành hạ kêu đòi. Để được còn thấy mình nguyên vẹn một
niềm lạc thú yêu sống đúng nghĩa, dầu rằng cái nghĩa lý ấy đã bị giảm giá ít
nhiều trước một dời đổi không do một ai trong chúng tôi được quyền định đoạt,
kể cả số phận của chính mình.
“Quán Hai Nhớp của chúng tôi” đình đám
suốt một thời gian dài. Thương hiệu được bảo chứng không chỉ riêng cho khu vực
công nhân mà còn danh giá tiếng tăm ra tới ngoài thị trấn An Tân phố chợ. Nó
thỏa mãn xoa dịu những cơn khát thèm vô tội vạ của tuổi trẻ Mỏ đá Chu Lai những
năm sau 1975 nhiều gian khó. Cả đất nước vừa thoát ra khỏi cuộc chiến hai thế
kỷ ròng rã tên bay đạn lạc. Sự đói nghèo hiện hữu trên từng khuôn mặt người,
trên từng ngóc ngách của đời sống. Phải gắng sức lên thôi. Ai cũng tự dặn lòng
an ủi vậy. Thôi! Đã được hưởng cảnh đất nước yên bình, còn mong gì hơn nữa?
Những người còn sống hôm nay là những hạt gạo trên sàng quý giá và phúc phận.
Chút túng khó bước đầu là tất yếu của quy luật phát triển, rồi ra mọi sự sẽ tốt
đẹp hơn. Bên cạnh hậu họa của tang thương mất mát là những đổ vỡ cần phải hàn
gắn. Từng con người đứng trước những thách thức vượt quá sự chịu đựng mà chỉ có
mỗi một lựa chọn hay nói cách khác là đã được cuộc sống lựa chọn giúp rồi, ta
chỉ vậy mà an tâm đi tới trên con đường đã được hoạch định. Nuôi dưỡng niềm tin
trong sáng ấy, chúng tôi đã cười đùa và ca hát, đã lăn lưng phơi mặt tưới từng
giọt mồ hôi ấm nóng tình đời để được sống và làm việc, một công việc quá nhiều
ý nghĩa cao quý và một cuộc sống ước mơ ở thì tương lai chờ đón. Nhờ vào tâm
thế ấy và cũng mang tâm thế ấy chúng tôi bay trên đôi cánh tuổi trẻ mang nhiều
dự phóng vào ngày mai sáng lạn. Cái “Ngày mai” đẹp đẽ huy hoàng cứ mải mốt chạy
về phía xa xăm chẳng đếm xỉa gì đến những kẻ đeo đuổi theo nó trên một hành
trình vô hạn định. Tuy vậy, nơi cái xó trời đất hoang vu này chỉ giàu có mỗi
nắng mưa và gió, những ngọn gió từ biển thao thiết réo gào từng khi biển động, đem cái lạnh thấu xương ban tặng
hào phóng cho từng tấm hình hài trai trẻ, làm bừng thức cơn đói thèm đêm đêm
không ngủ, đêm đêm lại rủ rê về những giấc mơ ngon, tiếng chép miệng giòn vang
trong khuya vắng từ giường ngủ đồng đội cứ nhắc nhở gọi mời, trêu đùa vào bụng
dạ sôi réo làm đầy lên những nỗi niềm buồn tủi.
Lâu lâu, đói, thèm mà vô phương giải
quyết vì đêm đã chìm vào tĩnh lặng. Tôi thầm thĩ ngâm mấy câu thơ tình cho đỡ
nhớ cái ăn. Thằng Chỉnh càu nhàu trở mình, thằng Trọng lé mất ngủ đổ quáu:
- “Bớ xồm bớ lốp! Eng không có eng còn bày đẹt yêu!
Kẹt họ!”
Tam
Kỳ - khuya cuối đông
Nguyễn Đức Dũng
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)