Câu thơ tình của ai đó mà tôi đọc được từ
trang tạp chí cũ hồi còn ở Mỏ đá Hòn Giang vào mùa đông năm 1975. Song chuyện
dưới đây lại là thứ “nhu cầu” khác, bức thiết hơn, hồng hoang hơn của những đòi
hỏi con người. Dân Miền Trung chúng tôi gọi là “Thèm”. Thèm ăn thèm uống, là
đói cơm lạt muối. Đó là loại nhu cầu mang tính vật chất, đáp ứng những tiêu
chuẩn cần thiết cho điều kiện sống của một con người, nó mang nỗi niềm của da
thịt, nó hàm súc triết lý của dạ dày, nó thúc hối dằn vặt và xéo dày ruột gan,
nó đủ quyền phép làm cho con người có thể rơi vào cảnh huống tồi bại và hèn
kém. Tục ngữ có câu “Khi đói đầu gối phải bò…”. Thèm muốn là một cảm giác cám
dỗ đầy cạm bẫy, có thể đẩy con người vào bi kịch khi không đủ bản lĩnh để kìm
nén cơn kêu đòi dung tục. Ăn uống, ngủ nghỉ và yêu đương xác thịt là nỗi thèm
khát bị nguyền rủa truyền đời, đeo đuổi rình rập những khi ta yếu mềm lòng dũng
khí. Hoàn toàn khác với nhu cầu tinh thần đẹp đẽ mà câu thơ hướng tới.
Kết cấu địa chất khoáng vật của núi đá Chu
Lai cũng lạ. Cả một mạch núi nhưng không như ở mỏ Phước Tường – Đá kết tầng.
Dạng vật chất kết cấu theo lớp lang, tầng bậc, rất dễ khai thác. Đá Chu Lai là
một khối hoa cương cấp I khổng lồ. Siêu cứng, lấp lánh những phần tử hạt dưới
nắng trời như ánh kim cương, như những vì sao nhấp nháy lung linh trong đêm
tối. Ta cứ hình dung cả dãy núi mênh mang kia là một thực thể đá mồ côi được
sinh ra trong quá trình vận động hình thành lớp vỏ trái đất. Nó tạo nên một
mạch núi đá liên hoàn và liền khối. Thời trước, tập đoàn RMK của Mỹ đã tổ chức
khai thác. Đây là mỏ lộ thiên có trữ lượng tương đối lớn, kế hoạch khai thác
hàng trăm năm, tính từ thời thực dân Pháp sang ta. Sử dụng cho xây dựng cơ sở
hạ tầng, mở mang đường sá, cầu cống…
Sản
xuất đá thủ công hoàn toàn bằng sức vai u thịt bắp của tuổi trẻ cộng với nhiệt
huyết tin yêu cuộc sống mới. Chúng tôi ào ào xông pha vào khó khăn gian khổ của
công việc lao động khổ sai mà hân hoan như một dạo chơi, thụ hưởng những giá
trị cao đẹp của cuộc đời. Một ý niệm vinh quang đặt bày tô vẻ quàng vào nghĩ
suy của lớp tâm hồn mới. Phơi phới lý tưởng. Khao khát sớm trở thành những công
dân hữu dụng. Đóng góp nhiều nhất công sức tâm lực hòng xây dựng quê hương giàu
đẹp, đất nước phồn vinh và cuộc sống thiên đường có thật dưới ánh mặt trời.
Trong môi trường ấy, sức người đổ ra mỗi
ngày mỗi giờ giữa công trường không thể cân đong đo đếm nổi. Chỉ phản xạ sinh
lý thường trực cho phép con người nhận thức được rằng mình đang tồn tại và
chiến đấu. “Chiến đấu” chứ không phải “làm việc”. Ta phải luôn dung dưỡng trong
tâm trí mình sức đề kháng mãnh liệt nhất có thể để chống chọi lại với cái đòi
hỏi bản năng trần tục từng giờ từng phút. Sự thèm thuồng. Nhu cầu muốn được ăn
uống. Muốn thỏa mãn cơn co thắt của gan ruột và phản ứng bài tiết dịch vị của
vòm miệng. Sự thèm ăn ám ảnh cả vào trong giấc ngủ. Ban ngày đổ tống tháo sức
lực ra với xà beng búa tạ, với gióng gánh cuốc xẻng, vậy mà đêm đêm, lứa trẻ
trai mười tám đôi mươi chúng tôi gặp toàn những giấc mơ ngon. Tuổi đương độ
phát tiết anh hoa chung sống vui đùa bên những cô gái xinh tươi ngon giòn con
mắt mà hiếm hoi những mộng mị đẹp. Năm thì mười họa mới có được bữa liên hoan
bồi dưỡng khi sơ kết quý hoặc sáu tháng kế hoạch. Lúc đó mới nghe được vài thậm
thụt nhỏ to ngoài bãi đá vào giờ giải lao: “Hồi hôm tau bắn máy bay…!” Môt
khoái cảm điều tiết tự nhiên rất người mà mất hút giữa giai đoạn sung mãn nhất.
Nó như thứ van xả tự động của một nồi hơi khi bị nén quá đầy. Than ơi! Chúng
tôi những năm tháng đẹp đẽ nhất của một đời người vậy mà mấy khi được lèn nén
để mong bật xả…
Để giải tỏa nỗi thèm thuồng bu bám luôn
dày vò. Những câu chuyện kể về món ăn ngon, những bữa ăn no đầy đã chìm khuất
từ hồi tu huýt tu lai nào đó lại được đào xới lên, dọn ra bày biện chi li lại
cho nhau thụ hưởng. Hâm nóng ký ức ngon miệng ấy mà cảm nhận dịch vị đang lén
lút đẫm ướt vòm họng. Sợ bè bạn trêu cười, thỉnh thoảng có đứa lại tìm cớ quay
mặt về hướng khác, như thể đang làm một việc gì đó bất chợt nghĩ ra. Nhưng tất
cả chúng tôi đều biết tỏng rằng bạn mình vừa giấu đi một lần nuốt nước miếng.
Quy luật cung cầu lại tìm cách nảy nòi.
Mỗi đội sản xuất vài trăm công nhân lao động. Với đồng lương chỉ mang tính ví
dụ vậy mà rồi cũng có người biết chắc bóp để xoay xở sinh lợi. Ban đầu chùng
lén thăm dò, sau không thấy cấp trên có ý phê phán gì nên mạnh dạn công khai.
“Bung ra” làm ăn bài bản hẳn hoi. Những tay “Cơ hội” lanh lẹ ấy tranh thủ từng
thời gian nghỉ hiếm hoi liên hệ ngoài chợ thị trấn An Tân lấy hàng về bán lại cho
anh em trong đơn vị. Chủng loại không lấy gì làm phong phú vì chưa “trường
vốn”. Song chỉ vài mặt hàng “nóng” thôi mà đã giải quyết được biết bao nhiêu
cái miệng háu ăn giữa thời buổi khủng hoảng dinh dưỡng trầm trọng ấy. Ngoài hai
mặt hàng chủ lực chạy nhất là bánh chưng nhưn thịt heo mỡ và kẹo đậu phụng.
Những “Đầu nậu” này còn “kinh doanh” thêm đường bát, thuốc lá và vài loại nước
ngọt có ga. Một loại hàng hóa nữa cũng đã được dấm dúi tuồn vào nhưng phải bán
chui và chỉ dành riêng cho “khách ruột”. Nghĩa là dạng bạn hàng cực kỳ “uy
tín”. Uống rượu mà không để cho người khác phát hiện ra mình vừa lai rai vài ly
ba xi đế. Có cho thêm vàng cũng đố đứa nào dám ăn gan hùm mật gấu mà để người
ta thấy mình say rượu! Sợ kỷ luật. Từ khi xuất hiện mấy cái “Quán” tài tử này
thì hầu như đám trai trẻ chúng tôi không còn biết đến tiền là gì nữa. Tới tháng
nhận lương, chủ quán “bắt tay” với tài vụ xử lý nhanh gọn khoản “thu nhập gọi
là” sau cả một tháng trời trần lưng ngoài bãi đá mặc cho mưa nắng đỏng đảnh
thất thường. Từng đoàn công nhân xếp hàng dài chờ vào văn phòng Ban chỉ huy để
ngoáy một phát vào cái ô hình chữ nhật bé tẹo trong sổ lương đơn vị là xong!
Mọi thừa thiếu được “lũy kế” vào cuốn sổ nợ đời trong tay chủ quán. Thường thì
thiếu lại chút ít. May mắn lắm mới gần trùng khít với khoản lương được nhận.
Lâu lâu, đứa nào được giải quyết cho phép về thăm nhà thì cả nhóm bạn chơi thân
với nhau phải quyết tâm cao độ, ăn nhín nhịn thèm, tránh trớ hàng quán như
tránh bệnh dịch, dứt khoát hạn chế ghi sổ
dành lại chút ít chung vào để bạn có đủ tiền tàu xe và “quà bánh đại
khái” cho một chuyến thăm nhà. Cứ thế mà xoay vòng, cho nên cả năm trời mới có
dịp về thăm cha mẹ anh em ruột thịt đôi ba bữa. Cũng do vậy mà truyền miệng câu
nói vui: “Tăng xin giảm mua hút tuyệt đối
để đi đến giai đoạn xin toàn diện”. Một cách phê phán nhẹ nhàng những ai ky bo
chuyên chôm chĩa lợi dụng sự hào phóng của người khác, mà cũng vừa tự chế nhạo,
dặn dò mình bớt tiêu pha vung phí.
Có vài tay “khôn lõi” không thèm “mở
quán”. Phần sợ khó thu hồi vốn phần nhát
gan không dám kinh doanh, thương trường là chiến trường kia mà, người xưa đã
từng dạy rồi, lơ tơ mơ chỉ có nước “sạt nghiệp”. Đó là những tay có sẵn máu đỏ
đen di truyền. Cờ bạc thì dứt khoát chẳng ai dám nghĩ tới rồi, song mưu ma chước
quỷ ở đầu óc của hậu duệ Đổ Bác lại sáng tạo ra được vài hình thức mới. Ăn thua
rất cay cú nhưng khó có thể quy trách nhiệm để xử lý kỷ luật. Đó là các kiểu cá
độ. Ban đầu cũng do mấy thằng “hẻo” quá khơi mào. Những đứa ăn nhiều, ăn không
biết no. Nhỏ người mà lớn bụng. Lại hay đau ốm vặt, sức khỏe kém nên lương
thấp. Cảm giác đói thèm vô phương chữa trị. Mấy tên này đương nhiên được xếp
loại “Tín nhiệm thấp” chót bảng. Không được chủ quán để mắt tới chào đón như
những “thượng đế” khác. Thường xuyên chầu rìa góp chuyện vặt quanh những bữa ăn
bồi dưỡng của đồng đội. Mắt hau háu nhìn vào từng miếng cắn miếng nhai của mọi
người mà nói tầm phào, chẳng đâu vào đâu, cốt để lấy cớ nhìn người ta ăn cho đỡ
thèm. Nhân nói vu vơ ấy mà nuốt nước miếng. Thông điệp thường xuyên như một thứ
phép màu của mấy tay này là chuyên thách độ:
-
“Ơ! Tau có thể ăn
gọn một cặp đường đen…”
-
“Tau có thể xơi
tái 5 phong lương khô 701…”
-
“Tau có thể giải
phóng 5 cặp bánh chưng..”
-
“Ơ! Tau có thể …
một gói kẹo đậu.v.v. và v.v…” Đứa mô dám độ không?
“Nhỏ người to con mắt” là kiểu ví von của
ông bà mình ngày xưa nhằm chê trách những kẻ háu ăn. “Vào độ” thua sặc máu
nhưng còn biết cách nào? Ký sổ không được! Vay mượn không xong mà cái sự thèm
kia nó bất kể chi nhướng, không biết tự lượng thân phận bọt bèo. Mà không biết
cái thứ nước miếng khốn khổ đó ở đâu ra mà nhiều đến thế, cứ đầy ứ miệng mồm
làm tình làm tội. Đành mặt dày mày dạn cố đấm ăn xôi, rồi ra kệ thây hậu họa,
cùng lắm thì chịu trận cho chủ quán nó chửi bới chán chê rồi cũng qua một quận.
Vậy là độ. Lúc đầu thì độ ăn bánh chưng, vừa no vừa béo, thanh toán cơn thèm
lưu cửu hành hạ đêm ngày. Mức khởi điểm như người ta tổ chức đấu thầu là 5 cặp
bánh chưng. Đa số chào thua khi lột vỏ cái bánh thứ năm, nghĩa là chưa giải
quyết trọn vẹn 3 cặp bánh, thế là thua độ, phải chịu trả tiền mức phạt gấp đôi
số thách độ ban đầu, cũng có nghĩa là phải chịu ghi nợ chủ quán 10 cặp bánh
chưng để dành cho mấy tay “Thầu độ” ăn dần không mất tiền. Tôi là một trong số
không nhiều những tên thua độ ở cặp bánh thứ tư. Trợn mắt nín thở để giữ cho
khỏi mửa trào ra ngoài phần mình vừa ngốn qua cửa miệng. Cầm cái bánh thứ bảy
lột vỏ mà nước mắt lưng tròng. Trước mắt mình không còn là cái bánh chưng đầy
cám dỗ vẫn hằng mơ ước mà là một hình khối chữ nhật bằng nếp nấu nhuyễn có các
số đo thể tích 8cm x 8cm x 4cm đầy trêu cợt và mai mỉa. Giới hạn thời gian quy
định nghiệt ngã của trận đấu đã gần hết hạn. Thế là thua, là chung độ trong sự
nhục nhã ê chề vì miếng ăn đầy tủi hổ.
Mức thách 5 cặp bánh chưng dừng lại khá
lâu, biết bao nhiêu hảo hán đành cúi đầu khuất phục. Những tay thầu độ vênh váo
cậy tiền khinh người ra mặt. Vậy mà một chiều, khi công nhân đang tắm rửa sau
buổi làm mệt mỏi ở những cái giếng nước tự đào quanh xí nghiệp, bỗng dậy lên
tiếng hò reo vang động một góc trời. Té ra bên đội 2 đã xuất hiện anh hùng cái
thế. Chàng ta dõng dạc tuyên bố sẽ giải phóng gọn 10 cặp bánh chưng sau thời
gian dài náu mình im tiếng. Trời đất ơi! Vậy mà anh ta đã thắng. Một chiến
thắng vinh quang vỗ mặt mấy tay thầu độ cậy thế hiếp người. Hay tin, cả rừng
người tụ tập trước sân xí nghiệp, ai nấy đều nghe hả lòng hả dạ, tung hô khen
ngợi không tiếc lời, kẻ đã rửa được mối hận thèm ăn thua độ của mấy trăm con
người ôm nỗi hờn căm nuốt cay đắng vào lòng, vừa mất tiền vừa chịu tiếng đời
thị phi báng bổ bấy nay. Thói thường ai cũng khó ưa những tay thầu độ, như tâm
lý ghét người giàu có hợm hĩnh của kẻ nghèo hèn. Song ông trời lại quen thói
phù thịnh chớ chẳng phù suy, nên chi ngậm ngùi kia của lực lượng thèm ăn kìm
nén lâu ngày nay được dịp bùng vỡ, một hạnh phúc lạ lùng xoa dịu niềm thống khổ
trầm luân đè nặng biết bao đầu xanh tuổi trẻ. Chàng trai lâu nay vốn vô danh
tiểu tốt, không một chút tài vặt thời thượng như mọi người, chìm khuất vào đám
đông câm lặng, bỗng chốc đổi đời. Sự nổi tiếng đã đem lại niềm vui lớn cho
không chỉ riêng anh, anh trở thành bạn bè thân thiết của cả xí nghiệp. Sau kỷ
lục bánh chưng, kỷ lục kẹo đậu phụng, kỷ lục lương khô cũng lần lượt xuất hiện
và thi thoảng bị phá vỡ. Nhưng có một kỷ lục lạ đời chắc chắn rằng chỉ Việt Nam
mình mới có. Đó là kỷ lục đập đá tảng bằng búa tạ…
Để phong phú thêm hình thức thi đấu nhằm
tăng phần thú vị hấp dẫn trong các cuộc tranh tài. Giới thầu độ nghĩ ra được
nhiều cách gầy độ và “gài độ” hiểm hóc, làm điêu đứng dân chơi thèm ăn cay
đắng, những trận thua xiểng liểng tức mửa mật. Kỳ lạ ở chỗ là bầy thiêu thân
vẫn không hề biết sợ, danh sách “tử trận” cứ nối dài theo những trận cười nói
hò reo vang động công trường. Những bàn bạc trao đổi phương cách thi đấu được
truyền tai nhau. Cũng bày ra chiến thuật chiến lược đấu sách hẳn hoi mang tính
“có nghề” phù hợp cho từng trận giao tranh nảy lửa. Kinh nghiệm về cách ăn như
thế nào để giảm no, giảm ớn được đề ra. Làm thế nào để chống lại cơn co thắt
nôn mửa khi thức ăn đã tràn lên cổ? Tắm trước hay tắm sau khi thi đấu v.v. và
v. v…Cũng đã gặt hái được kết quả hữu hiệu. Nhưng sự ranh ma quỷ quyệt của đối
phương cũng chẳng hề thua kém. Những ràng buộc về thể thức thể lệ thi đấu được
bổ sung liên tục để phù hợp với tình hình “chiến sự” diễn ra ngày càng éo le và
khốc liệt. Để cổ súy phong trào, tập thể đã phân hóa hình thành rõ rệt lực
lượng giữa hai giới tuyến. Giới thầu độ và đám chủ quán ăn theo tuy ít ỏi thành
viên nhưng lại nắm quyền sinh sát trận địa. Ngược lại, nguồn cổ vũ lớn lao và
niềm cảm mến sẻ chia “chiến hữu bị loại khỏi vòng chiến đấu” đã hâm nóng gắn
kết tình đồng đội của đông đảo phe bại trận. Danh sách các loại hình thách độ
quái chiêu đã xuất hiện thêm những kiểu độ nực cười. Độ đục lỗ bắn mìn xem cặp
thợ nào đục nhanh hơn, năng suất hơn. Độ đập đá 4x6 bằng búa con 1kg sau thời
gian quy định xem ai có khối lượng sản phẩm cao hơn. Độ đọc thơ, ca dao bắt
vần. Siêu nhất là vụ độ răng, giả hay thật, quả này đã làm điêu linh biết bao
nhiêu tay hiếu kỳ phải ôm hận ngậm bồ hòn làm ngọt. Cho đến tận bây giờ dầu sự
việc xảy ra đã gần 40 năm rồi, mà nghi án vẫn còn treo lơ lững. Chẳng biết cuối
cùng rồi hàm răng đẹp đẽ, đều tăm tắp và trắng ngà ấy của anh Dũng là răng thật
hay răng giả…?
Trong kỹ thuật khai thác đá thủ công,
người ta cho phép sử dụng một lượng thuốc nổ phù hợp để dùng vào những trường
hợp gặp tảng đá nhỏ, không đủ điều kiện để đục lỗ bắn mìn. Định lượng thuốc nổ
tuy vừa phải nhưng cũng không đạt chỉ tiêu tiêu hao vật liệu nổ quy định. Đó là
phương pháp đánh mìn “Ốp”, tức kẹp khối thuốc nổ vào một điểm phù hợp, nổ tác
động để làm nứt vỡ tảng đá ra cho công nhân dùng búa tạ tiếp tục đập thành đá
hộc 25x30. Từ khi có “chiêu” độ đập đá tảng, rất nhiều tay nghề đã được nâng
lên, người ta tìm kiếm biện pháp tối ưu nhất để thực hiện những ràng buộc hết
sức hóc hiểm của cuộc đua tài. Ngoài giá trị vật chất là bánh chưng, lương khô,
kẹo đậu v.v… thì tính tự ái của người thợ khai thác đá trước anh em đồng đội
cũng đã bị thách thức. Thua độ không chỉ đơn giản là thua phần bánh quà đã giao
kèo, mà còn có nghĩa chứng tỏ mình tay nghề kém cỏi trước bàn dân thiên hạ,
những đồng đội đồng nghiệp luôn chung cùng mưa nắng vui buồn, danh dự nghề nghiệp
bị tổn thương, ai mà chịu cho được. Vì vậy, những cuộc độ đập đá tảng luôn thu
hút đông đảo khán giả, tất cả đến để xem cho vui và cũng đến để học hỏi kinh
nghiệm của nghề nghiệp. Trong đông đảo tay chơi này, có khoảng chục người xứng
đáng với sự kính phục của tập thể. Đó là những anh lớn tuổi, vào khoảng trên
dưới 30, anh Phạm Hưng, tổ trưởng tổ tôi là người được toàn công trường ngưỡng
mộ. Vốn là một Hạ sỹ quan Quân Vận, bị bắt làm tù binh vào năm 1972, được học
tập cải tạo trên Trường Sơn, sau giải phóng anh được bố trí về tham gia Công
trường Đường Sắt Quảng Nam – Đà Nẵng. Phạm Hưng người thấp đậm, vạm vỡ, giỏi
võ, tính tình trầm lặng, chuẩn mực và tốt bụng, hay giúp đỡ mọi người. Anh
không bao giờ tham gia vào những trò nhố nhăng cá độ, chỉ đơn giản “Giữa đường
thấy việc bất bằng mà tha”. Khi gặp những cuộc độ có tảng đá quá lớn, thể tích
hơn nửa mét khối, mặt tiếp xúc oái ăm, không có điểm để đập búa, thường thì đó
là những tảng đá to tròn bị bỏ lại vì không mấy ai có thể đập nổi. Trong khoảng
15 phút giải lao giữa buổi làm việc, những tay thầu độ treo giá rất cao để lôi
kéo những thằng tay mơ hám ăn vào tròng, việc thua độ đã sờ sờ trước mặt. Lúc
ấy anh Phạm Hưng lặng lẽ vác chiếc búa 10kg của mình bước đến giải quyết giúp
vụ việc, chỉ trong vòng 10 nhát búa hoặc 10 phút quy định tùy theo thỏa thuận
của hai bên. Anh nhẹ nhàng điều khiển tay búa điệu nghệ. Cả công trường nín
thở, không khí ngột ngạt bao trùm. Bục! bục! bục… cạch! cạch…! tảng đá kiêu kỳ
thúc thủ vỡ toác ra sau một tiếng nổ khô gọn. Cả một khoảng bãi tưng bừng tiếng
hò reo vang dội, người ta nhào tới bắt tay, cảm ơn rồi công kênh anh như một
anh hùng. Cũng điềm đạm và lặng lẽ như vốn tính trời, Phạm Hưng khiêm tốn từ
chối niềm “vinh quang bánh kẹo” trở về vị trí của mình, rời xa nơi vừa là một
cuộc đấu trí lực đầy căng thẳng. Những lúc vắng im, anh em ngồi với nhau, anh
Hưng chỉ vẻ cho những ngón nghề độc đáo. Sở dĩ anh không bao giờ chịu chào thua
những tảng đá đầy thách đố ấy, là vì anh biết cách vận công, điều khí, thở sâu,
tập trung khí vào huyệt đan điền dưới bụng, đôi tay cầm búa uyển chuyển, khi
lơi khi chặt nhất nhất tuân thủ từng giây phút vận hành cơ năng để ra đòn. Anh
bảo: “Như người võ sỹ xử dụng binh khí, phải biết hợp nhất giữa con người và
binh khí vào lúc quyết định để tăng công lực, người ta thường bảo nhân kiếm hợp
bích là vậy…” Quả thật, từ bài học được anh chỉ giáo, tôi tuy nhỏ con gọn người
nhưng sau này cũng đã trở thành một công nhân đập đá không có đối thủ ở những
đơn vị mới, tôi chưa từng chịu thua bất cứ một tảng đá to tròn nào khi đã quyết
định ra tay với nó.
Bây giờ bạn bè cà phê cà pháo bù khú cả
ngày cả buổi với nhau là chuyện không vấn đề, chớ thời ấy đối với chúng tôi “Cà
phê” không có trong từ điển của mỗi thằng con trai đôi mươi phơi phới. Ăn!
Đúng. Chỉ béo và ngọt mới là mối quan tâm “đầu hàng” đòi hỏi luôn ở trong nhớ
nghĩ. Chả bao giờ nghe đứa nào rủ nhau ra An Tân để uống cà phê cà pháo chi cả.
Có mà điên! Mỗi tháng 4 chủ nhật thì mất 2 cái chủ nhật lao động xã hội chủ
nghĩa rồi. Đó là tính những tháng làm việc bình thường chớ nếu vào chiến dịch
thì “Thèng mô con mô núa chủ nhựt? Chỉ mẹt tau coi thử? Thứ tốm chớ!”. Hai chủ
nhật được nghỉ chỉ quanh quẩn trong xí nghiệp, ai muốn ra thị trấn chơi phải
xin phép và được sự đồng ý của Phân hội trưởng Thanh niên hoặc Tổ trưởng sản
xuất. Mà ra chợ cũng chẳng để làm gì, đã vài lần ghé vào quán cà phê nhâm nhi
trông sành điệu đấy nhưng cái ngon của thú thưởng thức cà phê nó quên mình mất
rồi. Lang thang vài lần. Chán. Ở nhà chơi có khi hay hơn vì còn bạn bè đồng
đội, tào lao xịt bợp hoặc giã hát hò với nhau cũng nghe khí thế. Ra thấy “người
ta” ngẫm lại thân phận mình nó sao sao ấy! Cuối cùng rồi trời ta ta ngồi đất ta
ta đứng, chẳng phải nghĩ ngợi nhiều. Rối!
Cả 4 đội sản xuất “châu tuần” quanh xí
nghiệp có đâu chừng sáu bảy cái “Amateur Quán”, không đủ nội lực để phục vụ cho
một lượng khách quá sức đông đảo. Tuy vậy, hình thức “kinh doanh” này chỉ phát
huy được vụ ký sổ. Tức là mua chịu nợ thoải mái đợi đến kỳ lương rồi tính! Còn
“nhu cầu thoải mái” đúng nghĩa để tận hưởng cái thú “tiêu tiền” thì lại hiềm
rằng “xa xỉ”, hầu như “viển vông”. Mỗi công nhân được bố trí một giường ngủ cá
nhân, giữa hai giường là lối đi nhỏ. “Tư trang gia sản” tất cả cất giữ trong ba
lô hoặc cái thùng gỗ vốn đựng thuốc nổ để đánh mìn, một dạng “rương hòm” rất
hiếm quý, chỉ có bọn “đẹp người đẹp nết” hoặc giỏi làm thân với “trên” mới sở
hữu được. Nó tiện dụng ở chỗ có thể khóa lại để bảo vệ được “tài sản” riêng tư.
Tất tần tật đều phải xếp đặt gọn gàng trong không gian thuộc quyền “sổ đỏ” của
mình, vì vậy mà việc “giao thương” cũng xem ra hơi bất tiện. Thỉnh thoảng để
đổi gió và trốn đi hát nhạc “trước 75” cho nhau nghe, chúng tôi mò ra cái quán
duy nhất của dân sở tại ngay đầu con đường độc đạo từ Quốc lộ I dẫn vào công
trường. Từ nơi này đến khu tập thể chúng tôi cách một tầm hú gọi, đủ an toàn
cho những riêng tư lén lút, tránh sự quản lý theo dõi của Ban chỉ huy và “tai
mắt” dòm ngó đáng phải kiêng dè. Cả một vùng đồng không mông quạnh do ngày
trước phải di dời trắng vì khu quân sự Phi trường Chu Lai của quân đội Mỹ. Sau
giải phóng chẳng hiểu sao lại chỉ mỗi một ngôi nhà dân nằm hiu quạnh ở chốn
này. Để vào quán, bạn phải đi qua một con đường nhỏ sát chuồng trâu quanh năm
lầy lội vì phân chảy tràn ra ngoài. Cái thứ nhèm nhẹp nồng khai lưu cửu sền sệt
xanh đen bỏ đi của trâu bò theo chân thực khách vào đến trong nhà. Đó là một
thực thể gọi là “Nhà” được vá víu bằng đủ thứ vật dụng và “vất liệu”. Cả không
gian ẩm mốc vì u tối, nóng hầm hập, mái nhà sùm sụp trên đầu vì quá thấp. Chen
chúc trong cái gọi là nhà ấy là một gia đình hơi kỳ dị, người chồng đầu luôn
cạo trọc, nước da gầy xanh khó đoán tuổi, ước chừng khoảng giữa của ba hay bốn
chục gì đấy. Lúc nào cũng thấy anh luôn khom cúi người có lẽ do phản xạ tự
nhiên, tay chân lóng ngóng vụng về. Chẳng mấy khi nghe anh trò chuyện ngoài vài
tiếng ừ hử lấy lệ lúc khách hỏi thăm một điều gì đó. Sự “Khai sinh” và “Thương
hiệu” của cái quán này đúng là sáng tạo nghệ thuật của một đầu óc phong phú
tưởng tượng, xứng đáng xếp vào hạng “Thiên tài”. “Quán Hai Nhớp”. Chẳng ai biết
được người chủ nhà tên gì, để cho phải phép, chúng tôi gọi là “Anh Hai” vì anh
lớn tuổi hơn đám lau nhau chúng tôi rất nhiều. Sau ai đó phong thêm cho cái tên
đặc hiệu nói trên vì sự tinh túy của cung cách làm ăn và chất lượng hàng hóa mà
anh đang kinh doanh phục vụ. Hai Nhớp vô tư đón nhận danh hiệu cao quý từ trên
trời rơi xuống chẳng chút tự ái giận hờn hay tỏ vẻ khó chịu, Anh thuận lòng sự
đặt để ấy như rằng nó đúng chính là của anh, chỉ anh chứ không phải bất kỳ một ai
khác được phép xâm phạm bản quyền. Bên cạnh Hai Nhớp là cái bóng của bà chủ nhà
cỡ ngoài 30 có vẻ bệnh hoạn, nước da vàng vọt, khuôn mặt bủng beo mà đầy chịu
đựng, cứ loay hoay trong bếp. Có bốn đứa trẻ vừa trai vừa gái mũi dãi lều phều
và cóc ké sài đẹn treo trên người những tấm vải nhàu cũ cáu bẩn trước đó được
gọi là quần áo, phất phới chạy nhảy lung tung trong cảnh giới ấy cho thấy còn
chút sinh khí của sự hoạt động. Quán bán những món hàng vặt vãnh quen thuộc,
mấy gói kẹo đậu phụng, một lọ thủy tinh đầy vết dấu tay đựng kẹo ú, xâu bánh
chưn treo tòong teng bên cửa sổ, chồng bánh tráng đựng trong bao nilon vàng
đục. Dưới nền nhà nhớp nháp dựng vài chai nước ngọt hình như đã quá hạn sử dụng
vì nắp ken rét rỉ. Trong tủ lưới bé nhỏ vẹo vọ móc hờ một ổ khóa chắc để “phòng
người ngay” chỏng chơ mấy gói thuốc lá rẻ tiền, chồng thuốc rê đen được cắt
miếng vuông vắn. Sát góc tủ là cái can nhựa cũ kỹ đựng rượu Quảng Ngãi. Thứ
rượu được cho rất nặng đô và khó nuốt vì bị pha chế thêm nước lạnh cộng với
lung tung các thứ độc hại để kiếm được nhiều tiền lời. Điều đặc biệt lôi kéo
khách hàng ở cái quán này là bánh đúc. Vợ Hai Nhớp loay hoay dưới bếp để làm
bánh trong mấy cái rỗ tre, mẹt tre và kể cả mấy cái bịt mõm bò lót lá chuối.
Bánh làm bằng gạo đỏ, hấp trong cái thùng tole móp méo dưới căn bếp lộn xộn
thau chậu soong nồi và bù hóng mạng nhện. Khi có khách vào ăn, bánh được cắt ra
thành từng miếng xinh xắn tùy theo giá tiền bởi một con dao bạ đâu vất đấy, Hai
Nhớp ngó dáo dác tìm lấy dao rồi quẹt đại vào bất kể thứ gì trong tầm tay, coi
như chùi cho sạch trước khi cắt. Đôi tay bẩn thỉu bốc mấy lát bánh bỏ vào một
cái dĩa nứt rạn rồi đặt lên bàn trước mặt những “thượng đế” lúc nào cũng sẵn
đói thèm, Hai Nhớp múc mắm cái trong một thẩu nhựa vo ve ruồi nhặng đổ vào một
cái chén đất, hai ba người cùng chấm chung chén mắm ấy, nếu có ai kỹ tính lắm
thì đem thêm chén lên để khách ăn riêng. Kinh khủng nhất là những chén mắm cái
còn sót lại khi khách ăn xong, tất cả đều được Hai Nhớp dùng chiếc đũa tre mốc
xì vớt lọc bỏ những vụn bánh nằm lẫn trong mắm rồi vét sạch vào cái thẩu đựng
để ở trên bàn, đợi múc ra bán tiếp cho những “Thực khách” quý hóa đến sau. Lối
“quay vòng mắm cái đã qua sử dụng” ấy diễn ra công khai trước mắt mọi người,
mặc cho rất nhiều phản ứng, phê phán kể cả to tiếng, Hai Nhớp chẳng chày cối
phân bua làm gì cho phiền, cứ lẵng lặng làm cái việc mà mình dứt khoát là đúng
với lý lẽ rất căn cơ: “Cả nhà tui cũng eng chung thẩu mắm đó rứa mà, méc mớ chi
mô…”. Đúng chẳng “méc mớ chi mô” thật. Bằng cớ là dẫu có biết rằng mình đang ăn
vào bụng loại bánh đúc chấm mắm cái mất vệ sinh nhất trong lịch sử hàng quán, ở
cái quán mất vệ sinh nhất thế giới ăn hàng bỏ chợ, nhưng còn làm bộ làm tịch
với ai đây giữa nước non này, khi cái sự thèm lạt lên ngôi, không cưỡng lại nổi
với nó, không thể chống lại sức quyến rũ chết người của miếng ăn. Nên nói chi
thì nói, mất vệ sinh cũng được, bẩn thỉu cũng được. Đã chết ngay tại chỗ thằng
nào con nào trong quán Hai Nhớp đâu mà phải dè chừng. Chúng tôi cứ an nhiên tự
tại mà ăn, mà ghi sổ để đời, mà: “Thôi! Ra quán Hai Nhớp ăn bánh đúc hè!” Rứa
là đi, rứa là xăng xái đến với thế giới riêng tư tự do thoái mái nhất dưới gầm
trời này của chúng tôi để ăn, để chuyện trò đã đời và hát những bài hát cũng
thèm thuồng không kém hành hạ kêu đòi. Để được còn thấy mình nguyên vẹn một
niềm lạc thú yêu sống đúng nghĩa, dầu rằng cái nghĩa lý ấy đã bị giảm giá ít
nhiều trước một dời đổi không do một ai trong chúng tôi được quyền định đoạt,
kể cả số phận của chính mình.
“Quán Hai Nhớp của chúng tôi” đình đám
suốt một thời gian dài. Thương hiệu được bảo chứng không chỉ riêng cho khu vực
công nhân mà còn danh giá tiếng tăm ra tới ngoài thị trấn An Tân phố chợ. Nó
thỏa mãn xoa dịu những cơn khát thèm vô tội vạ của tuổi trẻ Mỏ đá Chu Lai những
năm sau 1975 nhiều gian khó. Cả đất nước vừa thoát ra khỏi cuộc chiến hai thế
kỷ ròng rã tên bay đạn lạc. Sự đói nghèo hiện hữu trên từng khuôn mặt người,
trên từng ngóc ngách của đời sống. Phải gắng sức lên thôi. Ai cũng tự dặn lòng
an ủi vậy. Thôi! Đã được hưởng cảnh đất nước yên bình, còn mong gì hơn nữa?
Những người còn sống hôm nay là những hạt gạo trên sàng quý giá và phúc phận.
Chút túng khó bước đầu là tất yếu của quy luật phát triển, rồi ra mọi sự sẽ tốt
đẹp hơn. Bên cạnh hậu họa của tang thương mất mát là những đổ vỡ cần phải hàn
gắn. Từng con người đứng trước những thách thức vượt quá sự chịu đựng mà chỉ có
mỗi một lựa chọn hay nói cách khác là đã được cuộc sống lựa chọn giúp rồi, ta
chỉ vậy mà an tâm đi tới trên con đường đã được hoạch định. Nuôi dưỡng niềm tin
trong sáng ấy, chúng tôi đã cười đùa và ca hát, đã lăn lưng phơi mặt tưới từng
giọt mồ hôi ấm nóng tình đời để được sống và làm việc, một công việc quá nhiều
ý nghĩa cao quý và một cuộc sống ước mơ ở thì tương lai chờ đón. Nhờ vào tâm
thế ấy và cũng mang tâm thế ấy chúng tôi bay trên đôi cánh tuổi trẻ mang nhiều
dự phóng vào ngày mai sáng lạn. Cái “Ngày mai” đẹp đẽ huy hoàng cứ mải mốt chạy
về phía xa xăm chẳng đếm xỉa gì đến những kẻ đeo đuổi theo nó trên một hành
trình vô hạn định. Tuy vậy, nơi cái xó trời đất hoang vu này chỉ giàu có mỗi
nắng mưa và gió, những ngọn gió từ biển thao thiết réo gào từng khi biển động, đem cái lạnh thấu xương ban tặng
hào phóng cho từng tấm hình hài trai trẻ, làm bừng thức cơn đói thèm đêm đêm
không ngủ, đêm đêm lại rủ rê về những giấc mơ ngon, tiếng chép miệng giòn vang
trong khuya vắng từ giường ngủ đồng đội cứ nhắc nhở gọi mời, trêu đùa vào bụng
dạ sôi réo làm đầy lên những nỗi niềm buồn tủi.
Lâu lâu, đói, thèm mà vô phương giải
quyết vì đêm đã chìm vào tĩnh lặng. Tôi thầm thĩ ngâm mấy câu thơ tình cho đỡ
nhớ cái ăn. Thằng Chỉnh càu nhàu trở mình, thằng Trọng lé mất ngủ đổ quáu:
- “Bớ xồm bớ lốp! Eng không có eng còn bày đẹt yêu!
Kẹt họ!”
Tam
Kỳ - khuya cuối đông
Nguyễn Đức Dũng