Thứ Tư, 28 tháng 8, 2013

Cố Văn Hiền (TQ)-Vợ tôi - TRUYỆN NGẮN HAY

Vợ tôi
Cố Văn Hiền (TQ)
Bà vợ quẩy gánh bán rau trong chợ cóc, biết gì mà bàn chuyện thanh cao tiết liệt. để kiếm được vài chục bạc thì đứng hứng gió dầm mưa tới không một bóng người mới về; có tiêu đi vài đồng thì than thở xót xa mãi. Đến nỗi, con gái phải gắt lên:
- Mẹ có tiền mà không biết tiêu như người ta à? Thực là…
Bà vợ cuống quýt:
- Người ta khác, mẹ khác.
Từ nông thôn xa xôi chuyển lên làm việc ở thành phố, để mua được nhà, chúng tôi gặp khó khăn rất lớn về kinh tế. bà vợ dậy sớm thức khuya lăn lộn ngoài chợ. Thời buổi này tiền khó kiếm quá, bà vợ hay tiếc nuối: nếu tôi cũng có văn hóa thì…
Tôi hiểu điều này. Nhà người ta, hai vợ chồng cùng là viên chức, tiền có được dễ dàng hơn nhiều.
Có lần, tôi đi công tác miền núi hẻo lánh. Vừa mới tới nơi, đã thấy bà vợ, hỏi đường tìm tới, thở hổn hển. tôi kinh ngạc quá. Bà vợ trao tôi một bì thư:
- Bạn mình gởi thư tới, sợ lỡ việc của mình…
Tôi nhìn bì thư chưa bóc, nói:
- Loại thư này tôi nhận được nhiều lắm, có quan trọng gì đâu!

Con gái đi lấy chồng, nhà chỉ còn hai mạng già: Tôi là nhà văn, vợ tôi thì không hay chữ. Trừ phi cực chẳng đã, chẳng mấy khi chúng tôi trò chuyện với nhau. Sau này, tôi gặp một người đẹp đáng gọi là hồng nhan tri kỷ, thấy cuộc đời thế mới công bằng. bạn tình phải là người vừa tài vừa đẹp, lại không đòi ly hôn, lý tưởng biết bao.
Vợ tôi đi chợ bằng xe bus, bị chen ngã rất đau, sau khi ra viện trí nhớ giảm hẳn. tôi có thương xót bà vợ hơn một chút, gì thì gì, cũng đã là vợ chồng mấy chục năm. Tôi bảo:
- Bà không cần ra chợ nữa, lo tiền làm gì!
Bà vợ không chịu, còn bảo ở nhà chỉ sinh bệnh.
Dần dà, bà vợ thường bị đau đầu dữ dội, nhưng không kêu than gì. Tôi thì chẳng tự nhiên đi thăm hỏi cái chuyện ấy. Có khi nửa đêm tỉnh giấc, thấy bà ấy đau vật vã, tôi lên giọng:
- Bà sao không đến bệnh viện mà khám, có phải trẻ con đâu mà không biết lo cho mình thế hả!
Rồi sáng hôm sau, tôi quên ngay.
Một ngày, bà vợ ngất lịm trên đất, tôi mới cuống lên. Hôm ấy, tôi và bạn tình đi du lịch rất sảng khoái, quay về thì thấy vậy. tôi vật vã đưa bà vào viện, kết quả xét nghiệm thật kinh hồn: bà ấy bị ung thư giai đoạn cuối, chẳng còn được mấy ngày nữa đâu! Trời ơi, vợ tôi!
Lúc này, tôi mới ngược xuôi tìm thầy chạy thuốc, lại phải xin bác sĩ giấu tin này không cho vợ tôi hay. Tôi phải là chỗ dựa ổn định của vợ tôi, với người ốm, sự khích lệ về tinh thần rất quan trọng. Vợ tôi, đến tuổi này, đáng lẽ không còn phải vất vả bôn ba nữa, vậy mà… Tôi thấy thẹn thùng khôn xiết. Vợ tôi, dù rất đau đớn, nhưng lại vô cùng lạc quan. Bà ấy bảo:
- Kiếp này, tôi sống không uổng, gặp được người chồng hơn mình một bậc. Thế cũng đủ lắm rồi!
Hôm ấy, có vị thầy lang gõ cửa, bảo có thể chửa được bệnh của vợ tôi, và đòi giá 3000 tệ. Tôi sợ vị này nhắc tới từ ung thư, nên vội mặc cả.
- 2000 tệ thôi, tôi sẽ bằng lòng ngay!
Nhưng vợ tôi ngăn lại:
- Bệnh của tôi có gì đáng lo đâu, để hôm sau hãy quyết! Hôm sau, tôi nhận được giấy báo của một tổ chức đồng ý tài trợ cho tôi sáng tác, nhưng tôi phải tới Quảng Tây gặp họ. Bà vợ chuẩn bị cho tôi đầy đủ mọi thứ. Tôi chợt nhớ tới khoản tiền chữa bệnh của bà. Bà lấy ra một cái hộp bảo:
- Ông cứ yên tâm đi đi, tôi đã mặc cả 1500 tệ rồi.
Thế là tôi thanh thản lên đường.
Kết thúc cuộc gặp, tôi gọi điện định tâm sự với bạn tình. Cô ấy bỗng nghiêm giọng:
- Vợ anh qua đời rồi, anh không biết à?
Sao lại thế được? Tôi lao vội về nhà. Căn nhà chưa bao giờ trống trải đến vậy. Con gái tôi ở đó, vợ tôi chỉ để lại bức ảnh có vành tang đen trên tường. Quả tim tôi căng cứng, tôi khóc không nổi một tiếng nào.
- Mẹ con trở bệnh, sao con không gọi bố?
- Mẹ không cho. Mẹ bảo khó khăn lắm, bố mới có được cơ hội này. Mẹ đã làm vướng bố cả đời, đến khi sắp nhắm mắt không thể lại làm khổ bố nữa. Mẹ bảo, nếu con báo cho bố, làm bố lỡ việc, mẹ sẽ không nhắm mắt được.
Con gái tôi nói, thực ra mẹ biết bệnh mình tự trước rồi, sợ bố lo lắng nên mẹ giấu bố. Việc thầy lang kia cũng do mẹ nghĩ ra để bố tin là mẹ chưa biết gì, để bố yên lòng ra đi lo công việc sáng tác. Mẹ bảo, số phận đã vậy việc gì phải tốn phí tiền bạc nữa.
Tôi không còn hiểu con gái nói gì nữa, tôi chỉ biết nhìn trân trân vào di chúc mà vợ tôi gởi lại cho tôi: chỉ có mấy chữ nghệch ngoạc:
“ Mình đã chịu khổ quá nửa đời người, mình nhất định, nhất định phải tìm một người phụ nữ có học cho mình. Nếu không, ở bên kia thế giới, tôi không yên tâm đâu”.
Tôi nức lên. Tôi không thể làm theo lời di chúc của bà ấy được. Có lẽ, tôi phải tìm đến chỗ bà để cãi nhau với bà về chuyện này mới được. Hơn 20 năm vợ chồng, tôi chưa từng to tiếng với bà, chủ yếu là vì coi bà không ngang hàng để mà tranh luận…
Việt Anh ( dịch) theo TKCS Dẫn theo t/c HẠNH PHÚC GIA ĐÌNH Phụ nữ Việt Nam số ra ngày 22/9/2000

Thứ Ba, 27 tháng 8, 2013

Làng treo

• Làng treo

Quanh co cho hết con đường
còn nguyên mắt rượu dặm trường chưa đi
thế rồi sóng gió tràn ly
thế rồi nông nổi từ khi em…nhìn !

Ở đây cây lá vặn mình
vặn tôi mấy nhịp gập ghềnh sông chia
dốc dài lên tận trời kia
hai con mắt cạn đầm đìa sương không .

Làng treo một chuyến bên lòng
là treo hò hẹn vào trong …ngút ngàn
bước về bóng núi hoang mang
bóng tôi , treo . Với bóng làng – Chênh vênh !
Trà Mai 26-6-2007
Nguyễn Đức Dũng

Chuyện riêng

Nỗi niềm


                                               “ với : Th. “


Giữ nỗi buồn như của ăn của để
đánh dấu mình bằng những vết chân chim
em tất bật nắng mưa chạy chợ
ca dao búng rảy cành mềm .

Ngày đã chiều ngại chuyện bi bô
điều cần nói ở đàng sau ánh mắt
dắt nhau qua ngọt bùi cay đắng
còn đây mười ngón tay cầm …

Ta còn đây đời thuở hoa râm
Trầm tư
đời thuở nhân gian sự vui đắt đỏ
lặng lẽ xếp hàng lên khuôn mặt
lặng lẽ nợ nần vay trả một đời nhau .

Đừng trách anh ngơ ngẩn không đâu
mắt mở đăm đăm phù hư buổi thế
ta như nạng chống vào dâu bể
chống vào nhau đi hết cuộc chơi này

Trai giấu nỗi buồn vào ngọc
anh giấu nỗi buồn vào tóc .

Sao em chẳng giấu vào đâu …?

                         Duy Xuyên - chiều 21 – 01 – 2007
                                  Nguyễn Đức Dũng


Ký ức nắng

• Ký ức nắng

Khi mà em như một nỗi nhớ làng
anh quắt quay xanh
lòng bằng bãi sông ngày không đủ nắng
cứ xao xác bến bờ rất vắng
về nhâm nhi cái buồn ,
như thể món ngon riêng !

Khi mà ta hai phía lạc hai trời
bước lạc giang hồ không kiếm vỗ.
Anh con diều đứt giây lắc đầu không hứng gió
kỷ niệm tóc hoe nắng cũ vàng đến thế
rưng rức thời để chỏm xa mù duyên lứa giạt về đâu...!?

Chiều đó chỉ tay thề xanh tận mai sau
có nắng rất vàng ,
Rất vui !.
làm chứng .
Và gió nữa…
Chỉ sông không nói gì ,
sông chảy miên man …

Giờ thì em bằng một nỗi nhớ làng
vai ta đầy mưa ,
tóc ta đầy nắng
Bờ sông ngày xưa chỗ ngồi rất vắng
hết lở lại bồi
ký ức xa xăm …!!
Quảng Nam 10-4-2007
Nguyễn Đức Dũng

Lại nghĩ về miếng trầu

• Lại nghĩ về miếng trầu
" kính hương hồn Mẹ "

…theo suốt đời con
bỏm bẻm tiếng nhai trầu của Ngoại
thơm nồng chuyện kể
thơm đầy sân trăng …

những buổi chợ về xa xưa
sẽ sàng bên mâm
quà bánh cho con cau trầu phần Ngoại
riêng trong đôi mắt mẹ cười .

cứ nghĩ hoài một ngày mẹ sẽ già
lại bỏm bẻm thơm tràn khuya cổ tích
từng bữa chợ đông
hàng trầu hàng cau hàng vôi hàng thuốc…
không chờ con lớn khôn !

này dĩa trầu cay
mấy quả cau tròn
con khúm núm vào từng ngày giỗ tết
mẹ chưa kịp têm miếng trầu của mẹ
bày lên xanh khói hương …
Quảng Nam - chiều cuối năm 16-01-2006
Nguyễn Đức Dũng

Hành trình

• Hành trình

Cuối cùng rồi anh cũng về nhà với mẹ con em
về học lại mọi điều từ thằng cháu vừa hoa chân múa tay toe toét cười bi bô chập chững
về học lại cái an nhiên tự tại
sau khi vắt áo thợ bạc màu lên cành cây bất chợt bên đường

Anh mang cho em đôi bàn tay vẹn nguyên mười ngón vụng về mở ngửa
mang cho em cuộc đời anh thấm đẫm gió và sương
về gội lại mái xưa bềnh bồng bờ vai giờ thưa gầy tóc tuổi
sau một thời trẻ trai mê mệt những con đường

Ôi những con đường nắm níu tháng năm tình yêu và sức vóc
hiếu kỳ giấc mơ hoa trái sắc màu
anh đã đi đã yêu và đã khóc
mà con đường mê hoặc vẫn còn đau

Có thể mẹ sinh anh ra nhằm buổi đang chạy chợ
nên cái duyên bôn ba cơm áo quấy nhau hoài
giông với gió trót thân từ dạo ấy
để bây giờ mưa nắng chẳng nguôi ngoai

Cuối cùng rồi anh cũng về với mẹ con em
mười ngón tay ông mở ngửa vụng về múa may cùng mười ngón nhẹ lòng bé xinh của cháu
mặc chiếc ba lô hăm hở xưa đầy những trang giấy cũ
mang giấc mơ đi
giờ ,
anh lại mang về !
Duy Trung – ngày nghỉ việc 29- 11 – 2008

Lễ vật

Lễ vật

Thưa Cha
con dọn lòng con tinh khiết sớm mai này
ngày cuối năm như những ngày cuối năm
trong cuộc đời Cha đã từng thanh tịnh
trước bàn thờ gia tiên

Thưa Cha
ngày đã mới những trang đời lạ lẫm
lòng đã trong như lá tách trên cành
tay thành kính nén hương hiếu kính
sớm mai này dâng Cha

Con đã đi qua chặng đường Cha đi
con đã ghi lòng những lời Cha dạy
bằng cuộc đời hy sinh thầm lặng
giản dị và ngay thẳng

Cuộc đời vốn nhiều giông gió Cha ơi
con may mắn không xiêu cành bật gốc
giấy rách phải giữ lấy lề
nghèo cho sạch

Con dâng sự thơm tho thừa hưởng từ Cha
con dâng nguyên vẹn sự lấy lề giấy rách
bài học từ cuộc đời
hằng hằng niệm niệm

Sớm mai này
ngày cuối cùng của năm
như những ngày cuối cùng trước đây
Cha thành kính trước bàn thờ tiên tổ
con xin dọn lòng một lễ tất niên

Tam Kỳ 12/01/2013
Nguyễn Đức Dũng

Không đề

Không đề

bấy nhiêu gió bụi là vừa
ước chi cõi gởi này chưa có mình

mộng nhầm một giấc sinh linh
nhắm đôi tròng lệ nhân tình nhói lên

sự buồn không gọi thành tên
khoé vui giả tạm vẽ trên mặt người

đủ rồi nắng táp sương phơi
nẻo mưa gió có gọi mời ai đâu

chẳng qua hỷ nộ ban đầu
tự mình mua lấy bể dâu buộc mình
Tam Kỳ 04 – 9 - 2011
Nguyễn Đức Dũng

Ghi ở cổng An Trung

Ghi ở cổng An Trung

Cổng làng từ bữa em thôi
cứ hồ nghi đợi như hồi còn quen
xùng xình chuyện chẳng ra răng
biết sau tối lửa tắt đèn với ai

hồi mô biển rộng sông dài
chừ đây thiên hạ làm quay quắt mình
ruột dưa xót muối không thành
tự nhiên mất của để dành người ơi
trăng hè gió xóm chê tôi
tréo hai đầu võng mà ngồi ngó khan

nghĩ mà thương cái cổng làng
nghĩ mà giận cái người ngoan…nửa chừng
nghĩ mà tiếc cái người…dưng
hay ri hồi nớ mình đừng …với nhau !

8 – 2003
Nguyễn Đức Dũng

Mượn hồn

Mượn hồn

Em bỏ lại anh bờ cát mệt nhoài
cô đơn và nắng

Sau hành trình rất mực phiêu lưu
rất mực gió
sặc sỡ san hô
mơ hồ rong tảo
ấm nóng hải lưu tin cậy
lung linh yêu đương
lung linh sóng

Những tưởng có thể chết được
những tưởng không thể tách rời

Em nhuyễn thể thề bồi đỏ đen vận hạn
anh hằng tin hằng yêu một tín điều
Vôi

Sau hành trình đắm đuối mê hoặc kia
mệt nhoài tin yêu
mệt nhoài cái đẹp
em bỏ lại anh
cát
cô đơn
nắng
em bỏ lại anh thừa kế di sản chuyện tình cổ tích kể hoài
ký ức sóng
ký ức sắc màu
âm ba
trong ngôi nhà - vỏ ốc

30 – 8 – 2010
Nguyễn Đức Dũng

Lời sóng

Lời sóng
“tặng: L.T”

Bên nhau đêm trăng này
em có nghe tiếng cha ông trong từng con sóng
tấc cơ đồ,
tấc máu tấc xương

Sóng ì ầm dậy tiếng quân reo
ngực nát đầu rơi gươm khua giáo dựng
nghìn máu vọt lên trời
nghìn thây vùi xuống cát
hộp sọ nhe răng trừng ma trơi
xương vỡ dựng thành chông chống giặc

Này em ơi lớp lớp tiền nhân
chân đất áo chàm thanh tre manh chiếu
lạy mái tranh nghèo cha già mẹ yếu
xé vạt dùng dằng vợ dại con thơ
một đi khuất sóng không về
một đi nước mắt đầm đìa
không quay nhìn lại
bảy nhánh dâu xanh hình nhân mộ gió
quê nhà hương khói
đìu hiu …

Em ơi đừng quên
đêm trăng này đẹp lắm
mà mờ mịt ngoài kia ngực đảo lô nhô trợn mắt canh trời
kể chi bão bùng sương đau muối xót
một mình hứng một trùng khơi
giáo mẻ gươm cùn hồn ma bóng quế
vẫn bền lòng theo sóng nhắc ta
tuồng đợ con mượn giặc
dày xéo quê nhà
phường đớn hèn coi khinh mã tổ
sóng Rạch Gầm kinh hồn bạt vía
sóng Bạch Đằng hả giận máu trời Nam
mỗi con dân một ngọn sóng trào
mài gan giữ nước

Ta vốn lạt lòng
thật thà chất phác
cha tạo thân này trồng khoai cuốc đất
mẹ sinh đời này múa bút đề thơ
đời thuở nhà ai đẻ con đánh trận
nhưng em ơi sóng nghìn đời nhắc ta
con đường lông ngỗng trắng
nước mắt rơi giếng ngọc còn ngờ

Em ơi ta khắc vào xương ta ghim vào tuỷ
ta truyền vào gia phả
lời sóng dặn dò
lứa đôi còn tình tự trăng khuya
phải giỏi cuốc đất trồng khoai làm thơ và đánh trận
bài học nằm lòng em ơi sóng nhắc
lệ muối này thương tổ quốc,
ngoài kia…

Bến An Lương 18-9-2010

Cố thổ

Cố thổ

Bồi lắng đất đai này cơ man phù sa phổ hệ
sông khẳm mây trôi
người xốn mắt đò
gió bãi bờ rướn xanh tóc em xanh ngập ngừng dâu bắp
phiêu dạt phương trời neo đậu quẩn trong mơ

Còn neo đậu dấu hà thâm khoai sắn
hoa văn riêng,
Hòn Kẽm - Đá Dừng
còn neo đậu dáng cò sông nắng
đập cánh giang hồ
nhún lạnh sống lưng

còn vướng ngọn tre bên nhà hàng xóm
đau như roi hái trộm cây người
ham hố chi đâu
vụng trò danh phận
mà hằn trán đứa ham chơi ?

Có mải miết chừng mô rồi cũng mỏi
mộng đường bay đánh bẩy trái tim mình
nhắm mắt lại hồi đầu thị ngạn
sau hành trình nghí ngởn điêu linh

25 - 12 - 2010
Nguyễn Đức Dũng

Những ngày đau mắt

Những ngày đau mắt

Mệt người đợi bước chân quen
lần tay xuống bếp mà nhen bữa chiều
khói màu gì rất quạnh hiu
thương đường xa tội liêu xiêu gánh gồng

Hai đầu đó rị cong cong
ở giữa đay nghiến đau không hỡi mình
gặp nhau tưởng mộng rằng xanh
ai dè mưa nắng hắn giành với ta
chưa thảnh thơi đã vội già
ngó chưa vừa mắt đã ra kèm nhèm
bây chừ lại rước cực thêm
khi không anh bỗng quơ đêm vào ngày
nồi cơm lỡ đổ nước đầy
lửa già bếp tắt đừng ngầy chi nghe
tối chưa chẳng tiếng tăm về
ưng ra ngõ đón lại e lần mò

Tay quờ quạng phải than tro
nghe ươn ướt nỗi buồn cho phận người
Nguyễn Đức Dũng

Nắm níu

Nắm níu

Xoè tay ham muốn nỗi đời
Nghe năm ngón nhỏ ngỏ lời thon thon

Xoè tay hỏi mộng cỏn con
Cũng năm ngón đó véo von đủ rồi

Xoè tay là để xoè tôi
Mẹ cho năm ngón mồ côi mà xoè

Mấy đường chỉ nói tôi nghe
Mốt mai ngang dọc đi về là đây

Cầm mình cho trọn lòng tay
Quanh co vô tận chừng này đó em

Mẹ ơi bấu víu thon mềm
Đã xanh vào vạt cỏ êm còn xoè

Tam Kỳ 02 – 6 - 2011
Nguyễn Đức Dũng

Tự ru

Tự ru

Cái buồn khuấy mãi không tan
cái ngơ lưu cửu cái tàng lưu dung
tôi sân si đến tột cùng
khởi từ vô thuỷ vô chung khởi về

Chuông nào vỡ cuộc u mê
lay nhau với giữa bốn bề vô minh
ngồi chơi với gió một mình
nghe đâu cây cỏ bình sinh cũng là

Tam Kỳ 01 – 6 - 2011

Nguyễn Đức Dũng

DIỄM LỆ- TỌA ĐÀM 3 TẬP THƠ

Hội VH-NT tỉnh vừa tổ chức tọa đàm giới thiệu ba tập thơ mới ra mắt bạn đọc trong thời gian gần đây. Ba tập thơ thể hiện ba phong cách khác nhau của các tác giả xứ Quảng.





Thảo Nguyên “tàng ẩn nội lực”
Thảo Nguyên đánh dấu sự trở lại với một “Miền lá trở” đậm đà tình yêu quê hương. Thấp thoáng trong thơ anh là những địa danh Hội An, Mỹ Sơn, Phước Kiều, Vĩnh Điện. Nhà thơ Phùng Tấn Đông nhận định: “Thơ Thảo Nguyên là những câu thơ say đắm tàng ẩn nội lực”. Còn nhà thơ Nguyễn Hàn Chung trong lời tựa tập thơ “Miền lá trở” lại cho rằng “anh đã phát lộ một con đường thơ có giọng”.
Dù đã ở vào tuổi “lục thập nhi nhĩ thuận” nhưng Thảo Nguyên đã cho ra đời một tập thơ có sự bứt phá mới, sự trẻ trung vẫn hiện hữu với những nỗ lực đáng ghi nhận. Sức mạnh từ tình yêu quê hương vẫn luôn tiềm ẩn trong anh, khi trỗi dậy thành những áng thơ tình tứ, lay động. Nội lực trong thơ anh dù có chút chông chênh nhưng đủ độ chín khi thể hiện những hình ảnh rất thơ của quê hương như “phù sa”, “bóng cò”, “cánh buồm”, “câu hò”, “hương bồ kết”, “hương bã trầu”… Đọc thơ Thảo Nguyên để nghe “Những giọt phố va vào đêm/ Giọt giọt lặng thầm/ Sông Hoài thao thức xa xưa” (Phím tơ phố cổ), hay để thấy “Hương bồ kết giục bình minh qua bãi/ Hương bã trầu đánh thức những chiều hôm/ Chút khói nẫu lòng quê kiểng/ Chút mênh mang sâu nặng tâm hồn” (Với sông).
Phương ngữ định vị Nguyễn Đức Dũng
“Nóng” nhất trong buổi tọa đàm chính là phương ngữ trong thơ Nguyễn Đức Dũng. Người yêu thơ biết đến Nguyễn Đức Dũng qua những ngôn từ mộc mạc, nhiều khi giản dị đến quê kệch. Anh Ngô Phú Thiện cho rằng tập thơ “Áo giấy cho sông” của Nguyễn Đức Dũng đã “đứng” được trong lòng bạn đọc chính là nhờ có chất thơ quê kiểng, hồn hậu, rất Quảng Nam. Thơ anh không chỉ có phương ngữ đặc sệt chất Quảng mà còn có những hình ảnh, những cách nói dân gian được anh đưa vào thơ, nói lên điều mình trân trọng. Cái duyên của anh chính là đã đưa được phương ngữ và thơ, làm cho phương ngữ có chất thơ. Những kiểu ngôn từ như “nhớ cong đòn gánh”, “sử dại”, “ngỗ ngáo”, “quày quả”, ”cữ rày”, “ưng dốc ngược”, “ngố đân, ngố điếc”, “lặm thân”… cứ thế đi vào thơ, quê kiểng nhưng bỗng chốc trở nên sang trọng. Cả tập thơ chưa đầy 100 trang nhưng chứa đầy những ngôn từ kiểu như thế, để khi đọc lên, Nguyễn Đức Dũng được định vị bởi phương ngữ xứ Quảng.
Nhưng, phương ngữ cũng là rào cản cho thơ Nguyễn Đức Dũng, như nhận xét của Phùng Tấn Đông. Đọc cả tập “Áo giấy cho sông”, người đọc nếu không phải là người Quảng Nam có thể sẽ bị ngộp vì cả trời phương ngữ, khó hiểu và khó cảm. Anh Ngô Phú Thiện ủng hộ lối đi riêng của Nguyễn Đức Dũng, nhưng cũng băn khoăn chính phương ngữ được dùng nhiều lại làm mất đi cái thần, cái hồn của tập “Áo giấy cho sông”. Nhà thơ Trương Vũ Thiên An có lý khi cho rằng: “Nếu gỡ cho được vấn đề phương ngữ trong thơ Nguyễn Đức Dũng thì liệu tập thơ tiếp theo Nguyễn Đức Dũng có còn là Nguyễn Đức Dũng hay không?”.


Quan cảnh buổi tọa đàm.

Với tác giả Nguyễn Đức Dũng, có lẽ Nguyễn Mậu Hùng Kiệt đã thật tinh tế khi nhận ra “Áo giấy cho sông” là một tập hợp được chọn lựa khá kỹ lưỡng, cẩn trọng, thành kính, thiêng liêng chẳng khác nào người ta bày biện một mâm lễ cúng, bởi dẫu sống ngay trên mảnh đất quê nhà, Nguyễn Đức Dũng vẫn làm “một kẻ tha hương bất đắc dĩ”.
Đỗ Thượng Thế - một giọng thơ lạ
Là một nhà thơ trẻ, nhưng Đỗ Thượng Thế đã gây nên chút “hoang mang” trên diễn đàn thơ ca với sự xuất hiện của tập thơ “Trích tôi”. Hoang mang để rồi chợt mừng rỡ về một sự phá cách, mở lối đi mới cho thơ ca đất Quảng của các nhà thơ trẻ. Tập thơ đầu tay của Đỗ Thượng Thế đã không bị “vần nhịp lừa mị làm hỏng ý thơ” như lo lắng của anh. Anh đã chạm tay được vào những nguồn mạch của thi ca đương đại xứ Quảng, mượn một hình thức mới chuyển tải nội dung mới của thơ, hướng đến những hình thức thơ mới. Giọng thơ mới và lạ Đỗ Thượng Thế là một sự sáng tạo độc lập của riêng tác giả. Trong “Trích tôi”, độc giả bắt gặp một Đỗ Thượng Thế có sự giao thoa văn hóa trong vùng tam giác Hội An - Điện Bàn -Đại Lộc với những hình ảnh cực kỳ sinh động, ngôn ngữ vô cùng ám ảnh. Nguyễn Chiến nhận xét: “Gió trong thơ anh là gió không mùa, mưa là mưa Trịnh, mây huyền thoại, trăng héo trong tranh, bươm bướm chuồn chuồn la đà cổ tích, lũ chỉ là biến tấu lũ. Nhiều câu thơ của anh không phải dễ hiểu. Đọc thấy hay, thấy choi chói nỗi niềm nhưng thấu nghĩa thật khó”.
Với “Trích tôi”, Đỗ Thượng Thế đã khám phá đến tận cùng mọi ngõ ngách của chính mình, của cuộc đời và trích ra cho đời, cho nền thi ca đương đại một cái tôi riêng có, không lẫn vào đâu được. Nếu không có những vốn văn hóa thì thật khó để thẩm thấu thơ anh. Nhà thơ Phùng Tấn Đông khẳng định: “Lâu rồi Quảng Nam mới có một giọng thơ lạ như thế, ngôn ngữ riết róng, dữ dội, nội lực bứt phá, muốn biểu hiện đến tận cùng mọi cảm giác của chủ thể và “chủ quan hóa” sự riết róng ấy đến mọi sự hiện hữu trong đời sống”.
Diễm Lệ

NGÔ PHÚ THIỆN- LẤY CẢ QUÊ HƯƠNG LÀM SẢN NGHIỆP

Nhân đọc “Áo giấy cho sông” của Nguyễn Đức Dũng:

LẤY CẢ QUÊ HƯƠNG LÀM SẢN NGHIỆP

Con người tôi hằng gặp ngoài đời là một Nguyễn Đức Dũng chơn chất, hồn hậu và có phần tự kỷ. Thế mà đọc tập thơ “Áo giấy cho sông” của anh tôi mới ngộ ra rằng: Có một phú ông Đức Dũng kiêu bạt đến dư thừa của nả! Mới biết, người và thơ khó lường đến vậy.Tôi không thể nghĩ được gì đúng hơn cho bài viết, đành mượn tạm chút phần “hương hoả” trong gia tài thơ anh để làm tiêu đề:
“Lấy cả quê hương làm sản nghiệp
và tấm lòng để lại cho con...”
Nếu ai hoài nghi về sự sang giàu của tác giả “Áo giấy cho sông”, xin hãy đọc tập thơ đầu tay này của anh. Dẫu là một phú ông nhưng vẫn cố ăn nhịn, để dành suốt nửa chặng đời xuôi ngược, mãi đến đầu năm 2009 này Đức Dũng mới đem trình làng bạn thơ. Tập thơ mỏng- chưa đầy 100 trang- nhưng đủ cho thấy độ dày và độ chín của một hồn thơ đang mùa sung mãn. Hãy thận trọng khi nếm mùi ớt đồng Tư Phú của Dũng. Có thể nói ngay rằng, giữa chợ trời thi ca hôm nay, “Áo giấy cho sông” không phải thuộc loại hàng trôi nổi. Những bạn yêu thơ anh vẫn thường đùa theo kiểu Quảng Nam, gọi đây là tập thơ...“bốn triệu”, nhưng một người thơ ‘giàu có” như anh đâu cần làm thơ để đem rao bán !?
Đọc lời đề từ dưới chân dung sau trang bìa, tôi cứ thấy ngờ ngợ:
“ xin quì đây giữa Quảng Nam
cỏ cây ơi !
nhận tôi làm quê hương.”
Lẽ nào anh là kẻ “thiếu quê hương”? Đừng nông nổi mà thương nhầm, anh đang có thừa cả linh khí núi sông lẫn quê quán nội-ngoại. Đi đâu anh cũng “dắt một đoạn Thu Bồn vào túi ngực” và “chùa chiền chỉ một phía sông quê”. Như thế đấy, “ Áo giấy cho sông ” là thứ áo vàng, áo bạc của lòng anh tạ lễ với đất quê Điện Bàn-Quảng Nam. Nếu thiếu cái tâm thành ấy thì tại sao cả “sản nghiệp thơ”, anh chỉ chắt chiu 55 bài và hầu hết dành cho quê cha, đất tổ? Thú thực, khi vừa đọc nhan đề tập thơ tôi thấy hơi bị chợn. “Áo giấy” người ta chỉ mặc cho người cõi âm; mà “áo giấy cho sông” là để tiễn cho một dòng sông đã chết(?). Nhưng chữ vậy mà nghĩa không phải vậy. Đời người vẫn trôi chảy với đời sông theo dòng hợp lưu ký ức:
“ Giắt một đoạn Thu Bồn vào túi ngực
Thả đời trôi tận mấy phương người
Tay khệ nệ nồi hương bát nước
Ông bà theo tám nẻo trùng khơi...”
Phật linh diệu cả mười phương, tám hướng; còn Dũng thật thà, “khệ nệ” mang “nồi hương bát nước” ông bà để đi “tám nẻo trùng khơi”. Thì ra, sau biết bao thăng trầm cơm áo, có một Đức Dũng đang “Đê đầu tư cố hương”.Để rồi khi trật trầy túi rỗng, anh lại nhận ra mình là kẻ giàu có nhất làng. Cho nên ta chẳng chút hoài nghi, khi anh “Ngày cơm áo bầm đen thân tục luỵ /đêm chiêm bao sóng nổi đục bề sông” thế mà vẫn trong veo cái tình với dòng sông, quê kiểng:
Hẹn với lòng về thăm lại bến xưa
một thời Cha vẫy vùng tuổi nhỏ
ơi ! Bến đò Tư Phú
cong cong bên nhánh Thu Bồn...
Câu chữ thơ anh chân thành mà sắc nhọn như những mũi kim điểm huyệt người đọc, không đau mà vẫn xót.Mỗi nhan đề thơ của Đức Dũng là một khúc lòng chìm nổi với bến quê, với đất làng: “Nghiệp sông, Nỗi quê, Chất làng,Tư Phú, Nơi xưa đã từng sông” v.v... Anh “nói với riêng con” mà tôi cứ thấy nổi da gà:
Từng lưu tán mấy trời cơm gạo
Vẫn nôm na giọng đặc Thu Bồn
Mặc gai góc tróc trầy danh phận
Lấy nỗi niềm quê kiểng kéo da non...
( Chỉ nói với riêng con )
Hoặc độc thoại về mẹ:
Gặp người sương ướt hôm mai
nhớ cong đòn gánh ngày vai mẹ gầy
không vun được nắm đất đầy
chân hương nghiêng ngả cắm dày đời con !..
( Mua rau nhớ mẹ )
Nhưng theo tôi, vốn liếng kết sù nhất của tác giả “Áo giấy cho sông” chính là phần “hương hoả” ngôn từ trong thơ. Đã thành mặc định, xưa nay các thi nhân làm thơ vẫn dùng thứ ngôn ngữ hàn lâm hoặc thông dụng hướng chuẩn. Nếu có ít nhiều “sờ” đến phương ngữ, thì mới thấy ở bậc thơ “siêu quậy” như Bùi Giáng:
Ông tên là Gioáng phải không ?
Ông người Đà Noẽng chính tông tộc Buồi ? (Bâng quơ)
Nhưng bậc “trung niên thi sĩ” đó chỉ nhại âm Quảng, nói cho vui.Với Đức Dũng giọng Quảng, từ ngữ Quảng thuộc tầng vĩa của khí chất, của tấm lòng Quảng Nam. Lâu nay, con người quê xứ của đất này khi bước qua khỏi đèo Hải Vân tất đều bị chê là “vùng ngoại ngữ Quảng Nôm”! Bởi cái thổ âm của xứ mình khá đặc biệt, khó ai nghe rõ; mà dẫu có nghe cũng chẳng mấy người hiểu được. Thế mà cái anh chàng trọc phú Đức Dũng này chơi một cách xa xỉ vốn phương ngữ ấy trong thơ.Nếu cái sự mô, tê, răng, rứa...nghe ấm tình với người Huế, thì những: Ngỗ ngáo, quày quả, sử dại, cữ rày...đâu chỉ có làm sang cho thơ Dũng. Điều rất lạ là dẫu người phương Nam hay đất Bắc đọc thơ anh đều gật gù, tâm đắc khi chạm phải những từ ngữ “đặc sệt” Quảng Nam ấy. Thử nhặt bất kỳ vài câu như thế để ngẫm xem về thổ âm người Quảng:

Nhớ quá thể buổi ưng làm người lớn
Trai gái gần nhà sử dại cắp đôi nhau...
Hay :
Ra đi ước quen cao, biết rộng
Kể chi gió máy sông nhà
Tréo ngoe cái chè hai ấm ớ
Rứa rồi dị tới người ta !
Chữ nghĩa “đặc quánh” chất khẩu ngữ quê nhà mà vẫn rất thơ. Từ lối nói tự nhiên đến ngôn từ quê kiểng đã được anh phù phép để trở nên sang trọng và có sức biểu cảm đến bất ngờ. Trong khi đọc các nhà thơ được gọi là “Hậu hiện đại”, chúng ta thấy ngổn ngang xác chữ mà tình ý chẳng lượm lặt được gì, thì Đức Dũng cứ tưng tửng với phương ngôn mà cháy ruột. Những “lông bông không cửa không nhà”, “chảy nước miếng thèm chinh phục mấy tầng cây”; rồi “ưng dốc ngược”, “chộn rộn”, “ngố đân, ngố điếc”...có lẽ nhiều người Quảng đã quen với “thế giới” tắm vòi sen, uống nước đóng chai cũng thấy giật mình khi vấp phải những ngôn từ cha sinh mẹ đẻ ấy.Cái thâm hậu của phương ngữ trong thơ anh không chỉ thể hiện sự giao cảm tự nhiên mà độc đáo hơn là “phơi” được cả khí chất bộc trực của con người đất Quảng:
Chưn đất đầu trần phơi mùa khô hạn
Phù sa Thu Bồn hai buổi lặm thân...
Nếu trong thơ Hai-cư của Nhật Bản thường dùng những “quí ngữ” để chỉ mùa, thì từ “lặm” trong câu thơ trên của Dũng là một “quí tử” của đất quê Điện Bàn. Bởi chỉ có những ai uống nước sông Thu mới thấu nổi từ “lặm”: Lặm nước, mắc lặm lông mi, lặm thân...Vốn là từ “gia truyền” của Đông y đã chuyển hoá thành một động từ, chỉ tác động trực tiếp vào bên trong- mà chỉ có người Quảng mới “dịch” được ! Đọc “Áo giấy cho sông” đâu chỉ gặp đôi chỗ anh lấy phương ngữ làm trang điểm, mà cái vốn ấy đậm đặc, nảy nòi từ chính hồn thơ tác giả. Như anh đã trần tình trong thơ: “Chưn lung lạc lòng quay quắt xứ/ trở mình chăn chiếu buồn xo”...
Nhưng nhiều khi thái quá thành bất cập, cũng như thuốc quá liều dễ bị sốc. Một số bài đọc thì nghe hay, nhưng không ít người ngỡ anh đang làm xiếc : “Quày quả nuột lạc neo mình, quày quả lòng xưa ấy/ quày quả lứa măng dưới ngờm ngợp sinh thành”. Nào là “mô uớ bậu”, “nó... dông dông” v.v...
Có điều tuỳ thuộc ở góc độ tiếp nhận, người đọc có thể ‘tiêu hoá” câu từ trong thơ Đức Dũng theo cách của riêng mình. Ngay cả với chính tôi, nhiều khi cứ để thơ anh “Lặm” vào như thế. Và đâu đó- từ trong sâu thẳm bỗng giật mình nghĩ ra : “ Vì sao anh cứ nằng nặc quay về” !

NgôPhúThiện

HUỲNH MINH TÂM-Nguyễn Đức Dũng và Bài áo giấy cho sông

15.5.2009 Nguyễn Đức Dũng và Bài áo giấy cho sông
• Tháng 5 năm ngoái, tôi và nhà thơ NGUYỄN ĐỨC DŨNG (quê Quảng Nam) về dự trại sáng tác Văn học Miền Trung do Ủy ban toàn quốc các Hội liên hiệp VHNT Việt Nam tổ chức tại Huế nửa tháng. Duyên kỳ ngộ hai anh em chúng tôi ở cùng phòng và có nhiều kỷ niệm. Kết thúc trại sáng tác , tôi ra mắt tập thơ GIÓ CUỐI MẶT SÔNG- NXB Thuận Hóa, còn anh Dũng mới đây đã cho ra đời đứa con tinh thần đầu lòng- ÁO GIẤY CHO SÔNG và đã gửi tặng tôi.
Chúc mừng nhà thơ NGUYỄN ĐỨC DŨNG !
Xin phép anh HUỲNH MINH TÂM và W VĂN NGHỆ SÔNG CỬU LONG cho tôi đăng lại bài viết sau đây để chia sẻ những người yêu mến tôi và bạn tôi! (VÕ VĂN HOA)
Nguyễn Đức Dũng và Bài áo giấy cho sông
Huỳnh Minh Tâm




Như có lần tôi đã giới thiệu trên một bài viết, ở vùng đất Quảng Nam những năm gần đây nổi lên hai nhà thơ có giọng điệu rất lạ, nội lực sung mãn và niềm say mê thơ điếu đổ, đó là Đỗ Thượng Thế và Nguyễn Đức Dũng. Có điều đặc biệt là cả hai anh đều được đất Điện Bàn dung dưỡng truyền cốt. Người viết bài này có cảm nhận, dường như ở thời điểm nào Điện Bàn cũng "sinh nở" được các văn nhân thi sĩ và nhạc sĩ tài hoa, không kể ở những lĩnh vực khác. Chỉ nghiên cứu ở những thập niên gần đây, như tôi biết, có Nguyễn Hàn Chung, Nguyễn Minh Hùng, Nguyễn Nho Khiêm, Nguyễn Nho Sa Mạc, Nguyễn Chiến, Nguyễn Ngọc Hạnh, Mai Thanh Vinh...Gần đây nhất là Phạm Tấn Dũng với tập thơ Phía sóng cũng gây được tiếng vang trong lòng độc giả xứ Quảng. (Xin lỗi những nhà văn, nhà thơ khác tôi không kể tên ở đây, hoặc quê xứ Điện Bàn đi làm ăn xa, hoặc ở quê khác chọn Điện Bàn làm quê hương). Chất thơ Điện Bàn cũng rất lạ : sắc sảo, phóng khoáng, gân guốc, và dường như nặng phần lý trí (chung vậy, còn mỗi ngưòi mỗi khác là hiển nhiên). Điều đó sẽ có một bài nghiên cứu kỹ và sâu hơn. Ở đây, lan man như vậy cũng chỉ để hiểu sâu thêm về nhà thơ Nguyễn Đức Dũng.
Nguyễn Đức Dũng sinh năm 1958, quê nội ở thôn Phú Đông, Điên Quang, Điện Bàn, hiện sinh sống ở Thành Phố Tam Kỳ. Dáng người anh nhỏ thó, đen ngòm như hòn than, lại có bộ râu đậm đen trông thật khắc khổ," nghinh ngang". Mà cũng thật vậy. Cuộc đời của anh lên thác xuống ghềnh, như bị ông Trời đày ải (có vậy mới làm thơ chăng ? để xưng tụng mối sầu của tâm hồn, cái trắc trở của số phận ?).. Có lần tôi nghe anh tâm sự mình như một hòn đálăn không được phép mọc rêu. Cuộc sống chưa bao giờ ổn định. Công việc luôn luôn thay đổi. Rồi anh "trào lộng" tên mình là chẳng có gì "đức" "dũng" cả !. Nói chơi vậy thôi chứ cái "đức', cái "dũng" của anh thì anh em văn nghệ đất Quảng ai cũng hiểu và chia sẻ. Tính tình anh thật trầm lặng, chân thật và dễ mũi lòng. Thơ anh thì tràn trề tính nhân văn, chất lửa của tình yêu đất đai và quê hương. Dũng có nhiều bài thơ ấn tượng, nhiều câu thơ "mộc mạc" gây sốc cho bạn đọc. Bài thơ bài áo giấy cho sông của anh đã đăng nhiều báo trung ương và cả địa phương, đọc mãi vẫn cảm thấy một sức hút ngôn ngữ hoặc chất thơ "nghinh ngang" có sức lan toả trong lòng. Dũng bảo nó là bài văn tế cúng một đoạn sông mang nhiều tâm linh riêng tư, trong đó hình bóng người cha kính yêu và tội nghiệp củaDũng đã lần mò từ khi thơ dại và những năm tháng cuối đời khổ luỵ của ông. Thưc ra, đọc toàn bộ bài thơ ta chẳng gặp một từ "cha" nào cả.Nhưng quả thực, ở nó ta cảm nhận sự thăng trầm của một số phận, sự gắn bó thân hiết máu thịt của con người với quê hương, của tâm hồn mộng ảo với cây cỏ đất đai.
Đem một khúc sông đi rồi chẳng đem về
Ký ức ở trần bỏ quên mất áo
Lau bói đã xanh tràn biền bãi...
Chòng chành tuổi tác cập vào đâu ?
Ý tưởng và hình ảnh đoạn thơ trên của anh thực ra không mới. Thi nhân Nguyễn Du đã có Trải qua một cuộc bể dâu/ những điều trông thấy mà đau đớn lòng. Nhưng lạ lắm, cách nói cách thể hiện của Dũng lúc này vừa lãng đãng vừa day dứt. Những từ ngữ anh dùng "đem", "ký ức ở trần", "chòng chành tuổi tác" làm dấy lên một thi pháp mới. Nếu nói không quá ca tụng, thì đó là một sự sáng tạo độc đáo của riêng anh. Đến đây chợt nhớ thơ của nhà thơ Phùng Tấn Đông. Anh cũng có những câu thơ "đậm đà đau đớn" :sông đã chảy những róc rách đời đời mồ côi đất đá dỉnh núi thiêng Ngọc Linh ra cửa Đợi/ chảy lấp loá lưng trần gai xước nước mắ tổ tiên thời qua sông vỡ đất gieo mầm. "rằng hay thì thật là hay, nghe ra có vẻ chất phương tây nhiều"( là nói vui thôi !). Đức Dũng mộc mạc sầu đau, chưng cất nỗi đau bằng từ ngữ sắc sảo, gọn ghẽ.
Hôm sớm tuồng như sầm sập qua cầu
Bóng đò khuất bảy đời dương còn neo tiếng ới
Thương nhớ chóng bồ bồ chỗ đợi
đời người vuốt mặt đời sông.
Khai triển ý thơ thấy lại một quá khứ nhièu mặc cảm, đày đoạ. Cuộc sống với bao âu lo nặng nề cơm áo.Sông và người cũng chôn chân nhau trong cuộc mưu sinh và lòng trắc ẩn. "rằng sông kia/ rằng người đi/ có cùng câu chuyện của đời chảy quanh/ ta còn mắc nợ nguồn xanh/ lang thang mấy cõi đi về đất đai". (sông-Nguyễn Trung Bình-trong tập núi gọi biển).
Ngày xế khòm lưng khẳm nỗi sào không
mớn cũ nương nhau chống chèo mấp mé
tôi từng dịp trăng về không thấy bạn
sắp mụt măng còng roi quất chẳng buồn đi...!
Tới khổ thứ 3, tác giả mới hé lộ một nỗi niềm đơn độc bao la cái tự ngã. Ánh trăng le lói trên con đường cát bụi phù vân. Nhưng cũng chỉ có một ánh trăng nhỏ mềm bảng lảng khói sương để ru mộng đời người, mà "ngựa người" vẫn 4 vó không cất bước dời chân nổi. Trong niềm bi thương thống thiết ấy, có gì hơn chăng ?
tưởng nghinh ngang thiên hạ hải hồ
ngửa mặt phơi càn chín phương nắng gió
về đây bụm một sắc trời xanh ngợp người quá kể
sóng không hình đứng cạn mà...say !
có thể nói, khổ cuối tác giả đã dành hết tâm can, sức lực "thét" lên một tiếng cuộc sống đầy bất hạnh, mang mang tính nhân văn. Từ ngữ anh dùng rõ nét Quảng Nam, đắc địa. "bụm một sắc trời xanh" là một hình ảnh mới lạ, cuồng say, và trước mặt là tình yêu đau đớn rút rụôt, một niềm say nồng với khát vọng hạnh phúc và cuộc sống miên viễn an bình.
Xuyên suốt bài thơ, tác giả dã dùng những ngôn từ "quá liều lượng, quá độ" để về quê thắp một lòng hương khói/ một đời áo giấy đốt cho sông. Nghiêng một tí chút nữa thôi là tham vọng từ ngữ, là sính nỗi "lệ tràn mi'., như "sầm sập',"khòm lưng" ,"khẳm, "còng"...Nhưng dường như thiên phú, Nguyễn Đức Dũng đã biết dừng lại đứng lúc, đúng chỗ. Quá khứ buồn đau như thế là vừa. Không biết tôi có "quá chén" hay "tri kiến bất toàn" chăng ? Ngẫm nghĩ mãi, bài thơ hay có lẽ ở chỗ lòng người trong vắt, ở chỗ chân thật biêt trân trọng, yêu quí con người, cuộc sống ,dẫu đôi lúc phải cắn bầm nát môi. Dường như Nguyễn Đức Dũng đã "ngộ " ra bao điều thơ ca. Thành thật chúc anh thành công trên con đường gian truân này./.

Huỳnh Minh Tâm

Di tích



Di tích


Em làm di tích riêng tôi
Tôi làm bảo vệ một đời không lương
Ngoài kia thiên hạ hoa hương
Bao nhiêu kỳ tú cứ đường mà …đi !

Hơi buồn nhưng chẳng nói chi
Vì chưng xếp hạng từ khi mới nhìn

Người ta nhã nhạc cung đình
Tôi ngồi đập trái tim mình ra xem

Từ khi di tích là em
Lòng tôi bi ký từng đêm bảo tồn

27 – 7 – 2011
Nguyễn Đức Dũng

HUỲNH MINH TÂM-Giải mã Đất nước trong thơ Nguyễn Đức Dũng

GIẢI MÃ ĐẤT NƯỚC TRONG THƠ NGUYỄN ĐỨC DŨNG


Từ tập đầu tay “ Áo giấy cho sông” ( Nxb Văn học, 2009) đến tập thứ hai “ Nắm níu” ( Nxb Thanh niên, 2010), Nguyễn Đức Dũng đã khá bền bỉ, hứng cảm với đề tài Đất Nước. ( ở bài viết này, khái niệm Đất Nước được hiểu như một tình yêu rộng lớn Tổ Quốc, nhưng đồng thời cũng mang một phần sâu đậm, gắn bó với quê xứ, nơi chôn nhau cắt rốn).

Người viết bài này có cảm nhận, dường như Nguyễn Đức Dũng ước muốn lật đi, lật lại các hình ảnh, các giai điệu Đất Nước ở nhiều góc cạnh của cuộc sống, của nhân sinh, của xúc cảm. Với tâm tình quê kiểng, nhà thơ muốn tô thắm, khắc họa Đất Nước những diện mạo mới, những nhận thức mới với khát vọng bạn đọc cùng chia sẻ, cùng suy gẫm và yêu quí Đất Nước ở một tầng cao mới. Lẽ dĩ nhiên thiển ý kia rất tốt đẹp, đáng trân trọng, còn làm được đến đâu phụ thuộc rất nhiều yếu tố, như cảm hứng sáng tạo có mãnh liệt hay không, tầm nhìn tầm văn hóa có vững chắc, to lớn hay không, tay nghề thế nào, và hiển nhiên còn yếu tố phi nghệ thuật, phi khoa học là “ trời cho” nữa !?

Nguyễn Đức Dũng sinh năm 1958, quê nội ở thôn Phú Đông, Điện Quang, Điện Bàn, hiện sinh sống ở Thành Phố Tam Kỳ. Cuộc đời của anh nhiều lo toan, vất vả, lên thác xuống ghềnh, như bị ông Trời đày ải vậy. Tính tình anh thật trầm lặng, chân thật và dễ mũi lòng. Thơ anh thì tràn trề tính nhân văn, chất lửa của tình yêu đất đai và quê hương. Dũng có nhiều bài thơ ấn tượng, nhiều câu thơ "mộc mạc" gây sốc cho bạn đọc. Bài thơ bài áo giấy cho sông của anh đã đăng nhiều báo trung ương và cả địa phương, đọc mãi vẫn cảm thấy một sức hút ngôn ngữ hoặc chất thơ "nghinh ngang" có sức lan toả trong lòng. Dũng bảo nó là bài văn tế cúng một đoạn sông mang nhiều tâm linh riêng tư, trong đó hình bóng người cha kính yêu và tội nghiệp của Dũng đã lần mò từ khi thơ dại và những năm tháng cuối đời khổ luỵ của ông. Thưc ra, đọc toàn bộ bài thơ ta chẳng gặp một từ "cha" nào cả.Nhưng quả thực, ở nó ta cảm nhận sự thăng trầm của một số phận, sự gắn bó thân thiết máu thịt của con người với quê hương, của tâm hồn mộng ảo với cây cỏ đất đai.

Đem một khúc sông đi rồi chẳng đem về
Ký ức ở trần bỏ quên mất áo
Lau bói đã xanh tràn biền bãi...
Chòng chành tuổi tác cập vào đâu ?
( bài áo giấy cho sông)


Ý tưởng và hình ảnh đoạn thơ trên của anh thực ra không mới. Thi nhân Nguyễn Du đã có Trải qua một cuộc bể dâu/ những điều trông thấy mà đau đớn lòng. Nhưng lạ lắm, cách nói cách thể hiện của Dũng lúc này vừa lãng đãng vừa day dứt. Những từ ngữ anh dùng "đem", "ký ức ở trần", "chòng chành tuổi tác" làm dấy lên một thi pháp mới. Nếu nói không quá ca tụng, thì đó là một sự sáng tạo độc đáo của riêng anh.

Trong tập “ Áo giấy cho sông”, có bài “ Bất chợt về Đất Nước”, với những hình ảnh vừa gần gũi vừa xa lạ, vừa tả thực vừa huyền ảo, vừa quá khứ ông cha xa lăng lắc mà vẫn nghe ra khí thế của thời hiện đại, gợi thức một cảm xúc hào hùng và gian nan. Thơ Nguyễn Đức Dũng có một độ chín nhất định, đã đạt một bút pháp chân thực, giản dị:

Ưỡn ngực cánh cung
Đất Nước về phía biển
Như chim Lạc bốn nghìn năm
Cô đơn bay đội hình mũi tên trống đồng Ngọc Lũ…

Đất Nước hình mũi kiếm, câu thơ…
Từ hái lượm xòe ra bám vào núi đá
Từ Giao Chỉ xòe ra bám lầy thụt đồng sâu thau
Phèn rửa mặn
Đất Nước vua Hùng, bách tính, lê dân…

Ngoảnh mặt lại thăng trầm được mất
Cứ nghe lòng yêu Đất Nước… nhiều hơn !
( Bất chợt về Đất Nước)
Chúng ta cũng dễ dàng nhận ra một chút ít chất sử thi, cũng như một số cảm hứng thơ nhạc của các thế hệ trước anh đã có những tác động nhất định đến tác giả. Tôi chợt nhớ đến nhà thơ Chế Lan Viên tài hoa với những câu thơ đầy xúc động và ấn tượng :
Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm!
Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?
- Chưa đâu! Và ngay cả trong những ngày đẹp nhất
Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc,
Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn,
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc.
Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng...
Những ngày tôi sống đây là ngày đẹp hơn tất cả
Dù mai sau đời muôn vạn lần hơn:
Trái cây rơi vào áo người ngắm quả,
Đường nhân loại đi qua bóng lá xanh rờn,
Mặt trời đến mỗi ngày như khách lạ,
Gặp mỗi mặt người đều muốn ghé môi hôn...
Cha ông xưa từng đấm nát tay trước cửa cuộc đời,
Cửa vẫn đóng và đời im ỉm khoá
Những pho tượng chùa Tây Phương không biết cách trả lời
Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ
Văn Chiêu hồn từng thấm giọt mưa rơi!
Có phải cha ông đến sớm chăng và cháu con thì lại muộn?
( Tổ Quốc bao giờ đẹp thế này chăng ?)
Hoặc:
Đất nước bốn ngàn năm ôi tự hào biết mấy. Hạnh phúc trong tay ta đang nở hoa kết trái. Còn gì đẹp hơn ! còn gì đẹp hơn…
(Lá cờ Đảng- Nhạc Văn An)
Nhưng thơ của Nguyễn Đức Dũng vẫn có niềm say mê riêng biệt, và như đã có lần tôi viết về anh, dường như Nguyễn Đức Dũng khi viết thơ là “ lên đồng”, là phó mặc cho cảm xúc trào dâng dẫn dắt, là chấp nhận cái tôi toàn triệt và bung nở những câu thơ cháy lòng.

Sao lại cứ nhìn con bằng đôi mắt lưng chừng ba mươi tuổi ?
Thảng thốt gì hỡi mẹ,
Thời gian…!
( Câu hỏi về đôi mắt mẹ)

Tôi tự hỏi (nhiều người cũng đã và đang hỏi như tôi ?), tôi tra vấn, tôi phản biện: Đất Nước là gì? Đâu chỉ là bờ cõi, đất đai, sông núi, mà còn là những trầm tích văn hóa vật thể và phi vật thể ?, còn là tình yêu ? Tình yêu của con người với các đối tượng, với những hình ảnh núi sông, với quê xứ, giữa con người và thiên nhiên, giữa con người và con người, là tình yêu với gia đình, với cha mẹ? Hình ảnh mẹ với bóng cò, tảo tần sớm khuya đã đi vào tâm thức của người Việt Nam, đã được hóa thân thành cái đẹp cao vời, là tình yêu Đất Nước bền chặt. Và nhà thơ Nguyễn Đức Dũng dường như đã sâu sắc nhận ra điều linh thiêng kia:

Rơi vào quê hương chướng mùa mưa nắng
Con hỏi sương con hỏi gió
Hỏi tảo tần rau dưa hỏi cơ cầu đói lạnh
Sông chợ đò đầy
Hỏi đầu gióng gánh
Chân sớm vấp chân chiều…
( Câu hỏi về đôi mắt mẹ)

Tôi có suy nghĩ thế này, khi tình yêu Đất Nước của anh lớn lao, mạnh mẽ, khi tình yêu mẹ cha, quê xứ của anh sâu đậm bền chặt, thì cái nền văn hóa, cái gốc rễ phần người trong anh cũng được nâng cao, rạng rỡ. Bởi vậy, hành trình nhận thức về Đất Nước, hành trình gắn bó yêu quí Đất Nước cũng đầy chông gai, quyết liệt và có tính vận động tự thân, tựa như con đường nhận thức, “ ngộ” về đạo vậy. Nguyễn Đức Dũng từ “ Tre làng nghiêng ngọn xiêu
xiêu/ miếng trăng chập chững chiều treo nửa trời/ gió xuôi mái chợ vắng người/ có đôi gánh nước miệng cười đến…mê !” ( Qua Kế Xuyên- ở tập : Áo giấy cho sông”, hoặc là : “ Gió động cồng chiêng buôn làng mở hội/ váy xòe ngũ sắc gái Ba Na/ ngồi đây Phước Kiều trưa xanh tụng niệm/mà phiêu diêu núi thẳm rừng già…” ( Tiếng vọng Phước Kiều- ở tập : Áo giấy cho sông”) đến : “Cuối cùng rồi anh cũng về nhà với mẹ con em/ về học lại mọi điều từ thằng cháu vừa hoa chân múa tay toe toét cười bi bô chập chững/ về học lại cái an nhiên tự tại/ sau khi vắt áo thợ bạc màu lên cành cây bất chợt bên đường” ( Hành trình- ở tập Nắm níu) là một hành trình đứng nghĩa, là một cuộc dời đỗi của tâm thức, là cuộc phản biện tư biện ám biện đầy ngẫu cảm và chưng cất. Mang hồn thiêng sông núi, mang hình ảnh quê hương, tiếng lòng nhớ thương vương vấn chút tình trai mơ mộng từ “ Áo giấy cho sông” sang tập “ Nắm níu” và những bài thơ thời gian gần đây đã thấy rõ chuyển biến cảm hứng, nhận thức Đất Nước một cách rộng mở, phóng khoáng và “ réo rắt hơn”

Cha bồng nắm đất trên tay
Ba mươi năm vẫn chừng này sao con /
Nhục vinh nhân thế đã tròn
Rủi may đã tạm vui buồn đã quen
Vậy mà bồng nắm đất lên
Còn nghe máu lệ trào trên mắt mình
( bài ru giữa núi- ở tập Nắm níu).

Dễ thấy, Đất Nước đã lặn sâu vào thơ ca và khát vọng của Nguyễn Đức Dũng, và thơ ca cùng khát vọng “ ma ám” lại mở ra hình ảnh nhiều sắc màu Đất Nước. Đất Nước còn là hạnh phúc và giấc mơ của anh.

“ Anh mang cho em đôi bàn tay vẹn nguyên
mười ngón vụng về mở ngửa
mang cho em cuộc đời anh thấm đẫm gió và sương
về gội lại mái xưa bềnh bồng bờ vai giờ thưa
gầy tóc tuổi
sau một thời trẻ trai mê mệt những con đường
ôi những con đường nắm níu tháng năm
tình yêu và sức vóc
hiếu kỳ giấc mơ hoa trái sắc màu
anh đã đi đã yêu và đã khóc
mà con đường mê hoặc vẫn còn đau”
( Hành trình)

Anh cũng không ngần ngại mà tuyên bố, mà khẳng định như đinh đóng cột và hoan ca về mẹ và Đất Nước:

Mẹ đã hóa vào hình sông thế núi
Mẹ đã thành câu hát quấn tao nôi
Lòng xe hương,
Thắp lửa cùng quê kiểng
Thơm tràn đầy,
Trong râm mát
Ngậm ngùi
( Bóng mẹ)

Dường như dồn tụ tất thảy sức lực, tài năng sáng tạo, nghiền ngẫm về Đất Nước, để Nguyễn Đức Dũng vỡ òa cảm xúc, thăng hoa ở bài thơ viết về Đất Nước thật hay và tràn đầy xúc cảm:

Cương thổ

đất nước ngàn năm không mỏi cánh tay cung
giáo mác Trường Sơn
cọc nhọn Bạch Đằng
đến trẻ chăn trâu cũng cờ lau tập trận
chiếc roi cày rần rật máu cha ông

đất nước sinh ra huyền thoại tiên rồng
bọc trứng trăm con lên rừng xuống biển
mẹ lội suối trèo non
cha bạt ghềnh chắn sóng
mong mai sau nên vóc nên hình

đất nước quặn đau con sóng vỗ ru ghềnh
hồn biển động lời vỏ sò vỏ ốc
ta xăm ngực thuồng luồng mò trai lượm ngọc
thân vùi đảo xa mờ
ma đói lạnh trùng khơi

đất nước mỗi ngày lên đón ánh mặt trời
thấy dung mạo tiền nhân nhắc lời di huấn
nghe vị mặn mồ hôi thấm đầu sông cuối bãi
vạt cỏ bên đường cũng học để mà xanh

đất nước đổi bao xương máu mới yên bình
ta yêu nước là yêu những điều gần gũi nhất
yêu giọt mưa mái tranh
yêu reo cười lửa bếp
mẹ từng chiều nhen ấm áp cơm rau

vẫn biết rằng chưa sang cả đẹp giàu
nhưng ta quý những gì ta có được
ta giữ từng câu hát ru
từng tượng đồng bia đá
từng vạt áo nâu già mẹ cặm cụi ngoài sân

có đất nước nào như đất nước ta
lưng gánh mưa nguồn ngực phơi giông bão
mỗi góc ruộng bờ cây là mỗi niềm xương máu
mỗi tên người tên đất cứ rưng rưng

đất nước ơi từng chặng tủi mừng
như đứa trẻ lớn lên mỏi mòn cha mẹ
con nhà nghèo lòng thảo thơm từ bé
nghe tiếng gà nhảy ổ cũng nâng niu

đất nước ơi cay khói bếp chiều
đường đánh giặc nhớ mẹ già muốn khóc
cứ ưng về làm cúi núi rơm thơm
tóc mẹ bạc còn tro than lấm láp

đất nước ơi qua mỗi chặng đường
qua mỗi chặng lớn khôn
nhớ viên bi tuổi thơ sân trường lăn bảy màu ký ức
thương nhành ổi bên nhà đong đưa bím tóc
thương cánh diều rủ rê trốn học
thương câu Kiều thầy giảng buổi bình văn

đất nước còn đau giọt lệ quá quan
gạt bịn rịn thường tình hoá sao khuê Nguyễn Trãi
đất nước còn buồn tiếng thở dài cha từng mùa cấy hái
cơn nồm nam tàu chuối biết se lòng

đất nước nuôi ta thành những anh hùng
ta giữ đất bốn ngàn năm không nghỉ
đất nước dạy ta trở thành thi sĩ
ta giữ nước bằng nhân hậu bao dung

ta giữ đất nước bằng hào khí cha ông
từng thế hệ trao truyền ngọn lửa hồng tim máu
đất nước mến yêu ơi
bốn ngàn năm trang sử không nguôi giờ giông bão
những đàn con lại tiếp bước lên đường

Quảng Nam 19/8/2011
Nguyễn Đức Dũng
Bài thơ Cương thổ đã đặt một dấu ấn lớn cho hành trình nhận thức và sáng tạo Đất Nước của nhà thơ Nguyễn Đức Dũng. Tuy vậy, gặp anh đôi lần gần đây, tôi vẫn nghĩ, anh vẫn còn rất dồi dào khát vọng trên hành trình tìm cái đẹp, cái thiện về Đât Nước- dường như luôn biến hiện, lung linh đâu trước mắt. Thành thật chúc mừng anh với những thành công , bi cảm và hy vọng.



Huỳnh Minh Tâm

Khảo cổ

Khảo cổ

Họ về bến lở sông chia
để riêng trời đất đầm đìa gió mưa

Tóc mềm thuở nắng sương chưa
bàn tay đợi mượt cũng vừa trăm năm

Ngày rơm lửa nọ quên cầm
giờ đây khai quật hoa râm bắt đền

26 – 7 – 2011
Nguyễn Đức Dũng

Bà đi nằm viện

Bà đi nằm viện

Mấy hôm nay thiếu tay bà
cái sân ngơ ngác cái nhà hắt hiu
cha con ông cháu buồn thiu
bún tươi cơm hộp được chiều mất trưa

Đã quen nên thói nên lề
vắng bà mấy bữa bộn bề tôi lên
những là vụn vặt không tên
bao nhiêu tỷ mẩn nhớ quên nhập nhằng

Lần mò vạt áo nếp khăn
thiếu hơi nó mất thăng bằng bà ơi
mong cho chóng sức lại người
bà về nhà xới tiếng cười ra mâm

Mọi bề hãy cứ an tâm
dễ chi có dịp mà nằm giải lao
tôi thời chẳng nhớ mấy đâu
chỉ thương cháu ngoại lâu lâu nhắc bà

5 – 2011
Nguyễn Đức Dũng

Tác phẩm

Tác phẩm

Vỡ diễn sân khấu khép màn vỡ diễn cuộc đời mở ra
kịch bản siêu thời gian - siêu không gian vô tiền khoáng hậu
vỡ diễn đủ bi hài nụ cười nước mắt
ôi sung sướng tự hào sao mỗi cuộc đời đãm nhận một phân vai

Khi trời mây làm trách nhiệm phông màn
nghệ sỹ thăng hoa ý tưởng mình lên gốc cây ngọn cỏ
cả núi rừng sông suối kia cũng theo từng hồi kịch bản
cảm xúc con người dẫn dụ vỗ tay

Ta ngồi đây vừa diễn vừa xem
trong nước mắt đã nụ cười tán thưởng
thì em ơi hãy trọn lấy vai mình
trước khán giả nên khiêm nhường cúi xuống

Kịch bản chẳng lúc nào cho nhân vật ngẩng đầu lên
kể làm gì ta vai chúng sinh lu mờ nhỏ nhặt
niềm thiêng liêng mong một lần đấm ngực
phải nuốt lệ tài hoa thổn thức cao trào

Tố Như cảnh báo sự nhỏ nhen ghen ghét của trời
chảy máu mắt khóc Kiều nhưng không làm khác được
trong mỗi hoài thai sẵn tị hiềm tài mệnh tương đố
nghiệp dĩ riêng dành cho nhân loại yêu thơ

Ta lặng im ngồi đây chờ đến phiên mình
ra sân khấu múa may tận cùng sắp xếp
chút phận số nhỏ nhoi dẫu hơi tàn lực kiệt
góp cười khóc để đời tác phẩm của trăm năm

13/8/2012
Nguyễn Đức Dũng

Lặp lại

Lặp lại

ướm buồn bên lá
thu
gởi buồn lên trăng
khuyết

thả buồn theo sông
cạn
chạm buồn vào đá
mòn

pha giọt buồn như sương cho thơ
chữ
tan
thành
lệ
trắng

không quầy trưng bày nào nhận ký gởi nỗi niềm
cầm trở về
gặm
nhấm

Tam Kỳ 17/8/2012
Nguyễn Đức Dũng

Ghi chép hai câu

Ghi chép 2 câu

Tóc thu rồi tôi sương mùa lên mắt
Giọt trăng cổ sơ mấy rằm cũng khuyết

Đường xa lá thả nhớ rừng vân vi
Dấu chân vừa xóa gió dời ai đi

Chiều trôi bóng chim ngậm lời chưa hót
Hồi ngực trong tim nhói gì thảng thốt

Vai đèo cây vẫy hồn mây nhớ nhà
Lòng thung mắt cuội mở tròn xoáy hoa

Tọa thiền dáng núi quán mình vô thanh
Dòng sông tưởng niệm bài ca thác ghềnh

20/8/2012
Nguyễn Đức Dũng

Bản thảo mưa

Bản thảo mưa

Càng bước càng xa
những giọt mưa cố tình con đường quyến rũ hiễm hoạ
đi

sau lưng bàn tay
tiễn
trước mặt bàn tay
vẫy
xa kia
bếp lửa


ngày trần gian tụng niệm
tôi
linh hồn sinh hiện
để đi

T.K 6-9-2009
Nguyễn Đức Dũng

Bài thơ sông núi (phần II)

bên đèo Violắc




Đôi bạn


Các bạn thơ: Thái Bảo Dương Đỳnh, Huỳnh Huy Quyền, Võ Bá, Nguyễn Ngọc Chương & Huỳnh Tiến Văn tại Ngã ba Đông Dương - Kon Tum





Bài thơ sông núi (phần II)
Ghi chép

III Dùi Chiêng bên sông Đăk Bla
Để có được những cung đường phẳng lỳ rộng thoáng, đẹp đến ngẫu hứng, cho chúng tôi thả hồn mình mộng mơ thụ hưởng khoái cảm tê người khi đôi tay miên man say cùng chiếc ghi đông xe máy nuốt từng dặm trường xứ núi này. Đất và người Kon Tum đã phải làm một hành trình 100 năm đầy biến động. Băng qua rừng thiêng nước độc, thú dữ và những bệnh tật núi rừng nhiệt đới thách thức niềm tin y học. Băng qua tù đày lao dịch khổ sai. Băng qua những cuộc đấu tranh không ngừng nghỉ. Đất và người Kon Tum đã viết nên trang huyết lệ riêng mình trong lịch sử chói ngời của dân tộc.

Cứ điểm 601- Đồi Thịt Băm

Hôm nay ta đi qua cứ điểm 601 kia, ai biết rằng đó là nơi từng được gọi là “Đồi Thịt Băm”. Chỉ riêng mỗi cái tên ấy thôi đã nói lên nhiều ám tượng mà sách vở khó có thể diễn đạt rốt ráo hơn. Chẳng biết ngoài Bazan thổ nhưỡng ra, dưới mảnh đất này còn tố chất dinh dưỡng nào nữa được tìm thấy mà mỏi mắt hai bên đường mơn mởn non tơ của sắn, là thăm thẳm sắc màu cao su. Xa kia, những cánh rừng trồng nhiều lớp tuổi cứ kế tục hứa hẹn sự sung túc hôm nay và giàu có cho một tương lai đã cận kề. Chỉ còn nghe vang vọng bên tai, lẫn trong tiếng gió vút là hình như còn cả tiếng máu lửa một trời Tân Cảnh, Đăk Tô thuở trước. Đây là một trong ba chiến trường khốc liệt nhất trên toàn miền nam vào mùa hè đỏ lửa năm 1972. Một chiến trường mang tính chiến lược để giải quyết cuộc chiến tranh đã kéo dài những hai mươi năm. Máu và nước mắt, chia ly và đoàn tụ được tính ra thì bằng cả cuộc tranh đấu dài lâu trên khắp đất nước này cộng lại. Hôm nay vẫn còn biết bao nhiêu nắm xương vô định đang âm thầm dưới từng gốc cây ngọn cỏ, dưới từng khe suối đáy sông, bên những thung lũng nhọc nhằn chưa quên ầm vang bom đạn, lẫn khuất bên những cánh rừng làm sao gọi lên được hết tên người, những núi đồi ì ầm tiếng pháo bầy, pháo chụp. Từng linh hồn ấy vẫn ngày đêm theo từng ngọn gió lãng vãng trong khuya khoắc đợi chờ ngày đoàn viên cố xứ. Vì vậy, trong từng sắc độ của phì nhiêu cây trái kia, làm sao rạch ròi cụ thể nổi giá trị của những năm tháng yên bình. Sự hàm ơn của lòng người hôm nay dứt khoát không được một phút giây nào phai nhạt. Dân tộc này, thử hỏi có một gia đình nào lại không góp phần mất mát hy sinh, để hôm nay đây đi giữa xứ sở này, lòng ta chợt dấy lên một truy vấn rằng mình phải sống làm sao cho xứng đáng.
Chúng tôi đến bên bờ sông Đăk Bla trời đã ngả sang chiều, trong ánh hoàng hôn một ngày đầu mùa mưa, phố núi dường như vương vấn chút buồn sơn cước. Nhìn từ xa, tổng thể không gian nơi đây làm ta liên tưởng đến một chiếc nỏ khổng lồ đã kéo căng hết cỡ, mà tay nỏ chính là cây cầu Đăk Bla hiện đại nối thông QL14 hướng về phía tỉnh Gia Lai. Thượng và hạ lưu giòng sông Đăk Bla ở hai bên cầu làm cánh nỏ uốn cong. Theo một đường tưởng tượng, thì khi ta bật mũi tên lao vút đi lại bung nở ra thành một trời pháo hoa nhiều sắc màu rực rỡ trước chiếc nỏ diệu kỳ ấy, đó là hoa viên đầy những kỳ hoa dị thảo phía bắc của cầu đang chen đua khoe gió. Giữa hoa viên, một đài phun nước ngày đêm miệt mài điểm xuyết cho sự thăng hoa sáng tạo của con người và thiên nhiên ở một điểm nhấn thú vị vừa hiện đại lại vừa mang chút sắc thái truyền thống bản địa.
Chúng tôi đến thăm Nhà Ngục Kon Tum trong cơn mưa đan le lói ánh chiều. Từ xa, trên nền trời phía tây, những đám mây sũng nước làm cho khung cảnh thêm thê thiết, gợi nhớ đến một thời lầm than nô lệ, một thời dân tộc đã lê bước chân xích xiềng nước mất nhà tan, trên vai nặng đầy sưu cao thuế nặng. Lòng tôi không thể nào vui lên được trước nỗi niềm này. Thì sờ sờ ra đó, những gông cùm cũ kỹ còn lưu giữ luôn nhắc ta, những roi vọt tù đày ấy làm sao một sớm một chiều có thể nguôi khuây trong nhớ nghĩ: “Cha tạo thân này trồng khoai cuốc đất/ Mẹ sinh đời này múa bút đề thơ/ Đời thuở nhà ai đẻ con đánh trận…/ Nhưng em ơi sóng ngàn đời nhắc ta/ Con đường lông ngỗng trắng/ Nước mắt rơi/ Giếng ngọc còn ngờ…/ Em ơi ta khắc vào xương ta ghim vào tủy/ Ta truyền vào gia phả/ Lời sóng dặn dò/ Lứa đôi còn tình tự trăng khuya/ Phải giỏi cuốc đất trồng khoai làm thơ và đánh giặc/ Bài học nằm lòng em ơi sóng nhắc/ Lệ muối này/ Thương tổ quốc/ Ngoài kia…”

nhà thờ Gỗ Kon Tum

Nhà Thờ Gỗ Kon Tum nhanh chóng hóa giải tâm trạng ngậm ngùi chúng tôi vừa trải. Từng miếng mảng nắng nghiêng sót lại hắt lên tường thánh đường bày ra trước mắt sự tài hoa của những người nghệ sỹ nhân dân trong quá trình dựng nước và giữ nước. Đành rằng niềm tin tôn giáo kia là một nền văn minh triết học từ phương tây xa đến khó hình dung, nhưng khi du nhập vào tâm thế cư dân bản địa, đã tìm được cách thể hòa đồng, để hôm nay giữa thành phố núi này, thực thể tín ngưỡng ấy đã vượt khỏi giá trị riêng của mình, trở thành một di sản văn hóa bản địa hết sức độc đáo, có thể nói khó tìm ra phiên bản.
Chúng tôi ghé vào quán cà phê vỉa hè nghỉ chân. Nhà thơ Tạ Văn Sỹ đến ngay khi vừa nhận được tin, vẫn chiếc xe máy tàng tàng mà anh đã lang thang khắp mọi miền đất nước. Sau cú bắt tay, chưa đợi chúng tôi ê a, anh đã mau mắn hỏi kế hoạch cụ thể về thời gian, nơi ăn nghỉ khi đoàn ở lại thành phố này. Quả là cái tình văn nghệ đậm đà và thực tế đến xúc động. Nhà thơ xe ôm rút điện thoại “làm việc” trong khi chúng tôi nhắn và mời hai bạn thơ khác đến chơi, Trương Anh Tài, hội viên trẻ của Kon Tum vừa dự trại sáng tác Miền Trung – Tây Nguyên với nhà thơ Nguyễn Ngọc Chương của đoàn, và nhà thơ Từ Dạ Linh, con dân Thăng Bình Quảng Nam đang làm báo tại nơi này. Thôi thì không biết bao nhiêu là chuyện để nói, chỉ thiếu mỗi đọc thơ thôi là đủ một cuộc giao lưu thú vị. Bữa cơm tối đãi bạn không kém phần sang cả ở một quán ăn đặc sản phố núi do nữ sỹ Tạ Phúc Đoan, con gái rượu của Tạ thi nhân ồn ào một cách hết sức thân thương, bởi Đoan có lý do rất đáng yêu là “Dâu Quảng Nam”. Thì ra chồng Đoan quê Tiên Phước nhà mình, vậy đó, trái đất tròn té ra cũng có lý. Cuộc vui còn có mặt của nhà thơ Lại Hữu Kim, chủ tịch hội VHNT Kon Tum, anh Nguyễn Văn Long, chủ tịch Hội Nhà Báo Kon Tum, anh Đặng Thành Long, chánh văn phòng UBND tỉnh. Cũng chính anh Long (ủy ban) này lại là người lo sắp xếp để đoàn được nghỉ đêm tại nhà khách sang trọng của tỉnh, anh Cư, Phó giám đốc Đài PTTH Kon Tum, quê Đại Lộc Quảng Nam và nhiều anh em bạn bè dâu rễ quê nhà đến dự. Những tưởng thế cũng quá thâm tình, ai dè anh Long (nhà báo) dứt khoát phải mời anh em dự “Tăng hai” ở một quán khác, thật ra là để tìm không gian phù hợp hơn với một đêm giao lưu văn nghệ bạn bè. Rồi thì thơ, thì nhạc, bài dân ca “Dùi Chiêng” của quê hương Hòn Kẽm – Đá Dừng do nhà thơ Nguyễn Cường lĩnh xướng lại vang vang hòa điệu chủ khách “Chiêng Dùi/ Chiêng - Chiêng Dùi/ Chiêng” trong tiếng đệm lanh canh chén đũa ấy nó mới tự hào thân thương và cảm động làm sao. Chuyện tiếu lâm, chuyện của đất và người Quảng Nam, Kon Tum. Quảng Ngãi, Bình Định…Những tiết mục mộc cứ thế nối nhau suốt một đêm bầu bạn không thể nào ấm áp hơn được nữa.
Sau buổi cà phê sáng thân mật bên dòng Đăk Bla hùng vỹ và thơ mộng. Chúng tôi đến thăm và chào từ biệt anh chị em văn phòng Hội VHNT, văn phòng Hội Nhà Báo Kon Tum, để tiễn chân, anh Long dẫn đoàn đến thăm cầu treo và nhà rông Kon klo của bà con Bana. Đây có thể nói là cây cầu treo đẹp nhất Kon Tum. Nhưng chưa hết, theo các anh, nhà rông này được xem như đẹp nhất Tây Nguyên. Mà thật, với kiểu dáng độc đáo hoành tráng và vút cao của mái lá, những trụ cột thẳng tắp bề thế thô mộc vết đẽo của rìu, những chồng chéo liên kết cực kỳ tinh xảo của hệ thống dàn rầm thượng níu đỡ mái nhà, phía trong rộng rãi và thoáng mát. Bên cạnh nhà rông, cây Kơ nia cành lá sum suê, hài hòa trong một cánh rừng nhỏ. Sau lưng, giòng sông Đăk Bla uốn quanh bao bọc. Tất cả cảnh trí ấy đã trở thành một biểu tượng chủ đạo của văn hóa tây nguyên độc đáo. Chưa chịu thỏa lòng, anh Long lại khoản đãi một vò rượu cần rồi cầm tay nhau mở vòng xoang múa hát vui thấu trời mới đủ bộ lệ. Chuyến đi này, chúng tôi nợ những người bạn Kon Tum một gánh ân tình, chẳng biết làm thế nào cho trọn. Chia tay nhau bên chân cầu thang của ngôi nhà chung Kinh Thượng ấy, chúng tôi trao gởi biết bao nhiêu hò hẹn ân tình, chỉ thiếu nỗi sụt sùi nữa thôi là đa đoan đủ nghĩa…
IV Thơ mộng Măng Đen và hoang liêu Violăc
tượng đài Măng Đen
Nhà thơ Tạ Văn Sỹ đưa đoàn đến tận cửa ngõ phía đông thành phố Kon Tum, nơi bắt đầu của QL24 đường xuống đồng bằng mới chào nhau ở giữa con đường (Bùi Giáng). Chúng tôi siết chặt tay nhau mong những lần hội ngộ. Từ đây, chuyến đổ dốc miên man không biết đến bao giờ mới thôi. Chúng tôi lại đi qua những thôn xóm đã ngày càng thay da đổi thịt, những núi đồi nhấp nhô xanh trong nắng gió. Lại những sắn là sắn, sắn cơ hồ tươm lên những giòng mật ấm no trên từng đọt lá non hồng hào bụ bẫm, từng phiến lá xanh ngời ngút ngát hứa hẹn biết bao nhiêu thu hoạch. Lại cao su, cơ man là cao su. Từng khoảnh rừng cao su dài vuông vắn và tăm tắp đội ngũ. Phía dưới xa kia, Măng đen, khu du lịch sinh thái nghỉ dưỡng cao cấp đang chờ, nghe nói môi trường và cảnh quan nơi đây được mọi người tự hào là một Đà Lạt thu nhỏ. Thật vậy, sau nhiều giờ chạy xe, qua con đèo Măng Đen hao hao Hải Vân nhưng có phần khiêm tốn hơn về mức độ. Thị trấn Măng Đen, huyện Kon Plong đón chúng tôi bằng những cánh rừng thông đặc chủng tỏa bóng xuống hai bên đường. Những ngôi biệt thự im lìm nấp sau những cánh rừng kia cho thấy sự khả tín về một điểm đến hấp dẫn. Theo giới thiệu của nhà thơ Tạ Văn Sỹ, anh Đinh Su Giang, giáo viên trường PTDT Nội trú Măng Đen, Hội viên Văn học Kon Tum đón chúng tôi niềm nỡ như người bạn đã thân thiết tự khi nào. Giang đưa đoàn về khu nội trú của trường để sắp xếp cho việc nghỉ lại qua đêm. Làm một vòng quanh thị trấn, Giang đưa chúng tôi đến thăm tượng đài chiến thắng Măng Đen trong hoàng hôn sập tối, phía xa, từng vệt nắng cuối ngày tiếc nuối hắt lên bóng trời quang ảm đạm. Đêm Măng Đen se lạnh.
Cuộc rượu đạm bạc bày ra giữa nền nhà trong căn hộ tập thể nhỏ bé mà đáng yêu của vợ chồng Giang. Chàng nhà văn trẻ này lại tháo vát mượn về cây Guitar ấm tiếng và đẹp mắt, chắc chủ nhân của nó cũng là một nghệ sỹ sành sõi. Ngoài kia trời đã nhòa nhạt từng mảng sương nhẹ mỏng, như chiếc khăn duyên dáng choàng lên vai núi đồi, từng ngọn gió đêm len lỏi thổi qua những cánh rừng mơ màng ngủ. Chúng tôi lại chắp nối những khúc ca tha thiết một thời, những giai điệu tuy có phần “chẹp cheng” của nhà văn Huỳnh Văn Tiến do đã lâu ngày không tập dượt cũng đủ làm xuyến xao những đôi tai nghệ sỹ, tâm hồn mở ra với trời rộng đất dài, đêm tây nguyên chiêu đãi cơn lạnh ngọt ngào cho khách “thương hồ” xứ Quảng một bữa nhiều ấn tượng.
thác Pa Sỹ
Khi ánh ngày chưa kịp hửng lên trọn vẹn trên mảnh đất này, chúng tôi lại lục tục chuẩn bị cho một buổi sáng thăm thú còn nhiều ham hố mong khai phá. Sau khi thưởng thức ly cà phê sớm se lạnh trong khu quán bày biện có phần hơi sang trọng. Giang đưa chúng tôi đi thăm thác PASỸ, còn gọi là Thác Tóc. Sở dĩ có tên gọi này là bởi từ độ cao khoảng mươi lăm mét, một con thác nước mỏng đều như sương đổ xuống và tỏa bay trong gió, nhìn xa như mái tóc thiếu nữ đẹp đến hoang sơ. Bên cạnh cổng vào thác là khu vườn tượng rộng lớn trên một ngọn đồi, ở đây trưng bày giữa trời, dưới những tàng cây rừng hàng trăm bức tượng gỗ mô tả con người và các loại chim thú, những con vật gần gũi với người. Những tác phẩm này đại diện cho nền nghệ thuật tạo hình của 54 cộng đồng dân tộc anh em. Tuy không rành về môn nghệ thuật độc đáo này, nhưng chúng tôi cũng tìm thấy được những nét biểu cảm hết sức thú vị trên từng khuôn mặt tượng, chứng tỏ nó được sáng tạo bởi những bàn tay nghệ sỹ tài hoa, của những tộc người tài hoa còn lưu giữ những vốn quý bao đời ông cha truyền lại.
Điểm nấn ná cuối cùng ở “xứ lạnh” này là khu du lịch tâm linh tượng Đức Mẹ Maria tọa lạc trên ngọn đồi bên cạnh QL24. Theo Giang, đây là tượng Đức Mẹ độc đáo nhất thế giới. Đó là một bức tượng khiêm tốn về khối lượng và thật sự độc đáo về nghệ thuật mô tả, Mẹ chỉ có chiều cao đâu chừng một mét, ngự trên một đài cao cũng khiêm tốn như vậy, khuôn mặt tượng thể hiện vẻ đau buồn với hai bàn tay bị cụt. Thế nhưng khói nhang nghi ngút và khách hành hương nườm nượp đến chiêm bái và cầu nguyện. Dưới tán rừng hàng trăm chiếc ghế đá do tâm thành muôn phương dâng cúng để tỏ lòng kính tín và ơn phước.
Ấn tượng thống khoái nhất trong chuyến đi này đối với chúng tôi có lẽ là khi xuôi xe xuống đèo Violăc. Không biết chiều dài thực sự của đoạn đường đèo này bao nhiêu cây số, chỉ biết bắt đầu từ khoảng gần trưa, thế mà với tốc độ trung bình khoảng 40 cây số giờ, thi thoảng dừng lại dăm ba phút bên những cánh rừng đẹp đến mê hồn, những đoạn uốn lượn tài tử để chụp hình lưu niệm, chúng tôi phải chạy xe đến hơn bốn giờ đồng hồ mới coi như tạm xuôi xuôi ở địa phận ngã ba Ba Tơ, Nghĩa Hành của tỉnh Quảng Ngãi. Nỗi khoái cảm khi được mình tự cầm tay lái xe máy để đưa mình đổ dốc quanh co qua những cung đường, hun hút dưới những tán rừng hiu quạnh, là cái thú không thể diễn tả được, chỉ biết nó làm ta lâng lâng một cảm xúc mơ hồ mộng mỵ, gió cứ thổi qua không mệt mỏi, đường thì quạnh không một bóng người, không một bóng xe, đi như đi vào nơi chốn chưa từng ai khai phá, sự đơn độc lẻ loi ấy làm cho tâm hồn ta thực sự được trở về với chính bản ngã của mình, được là mình trọn vẹn nhất, không phải che đậy với ai, không phải đãi bôi, vờ vĩnh. Tôi đã đi qua nhiều đèo dốc nước non quê xứ. Nếu Đèo Krôngpa ở tuyến đường lên thành phố Đà Lạt, đoạn qua thủy điện Đa Nhim được dịch là đèo Ngoạn Mục bởi nó thật sự “ngoạn mục”, cũng thì quanh co và hết sức hiểm nguy khi các khúc quanh cùi chỏ có độ dốc lớn, nó làm cho ta cảm thấy mình bé nhỏ trước sự hun hút mắt nhìn khi đã vượt qua được cung đường căng thẳng nhất. Ngoài sự trầm trồ thán phục và kinh ngạc thì ngôn ngữ của con người coi như chẳng qua một tiếng “ồ” đầy cảm thán. Đèo Hải Vân được ngự ban danh xưng “Đệ Nhất Hùng Quan” giữa Huế và Đà Nẵng. Đó là một con đèo thật sự hoành tráng bởi mức độ thiết kế, xây dựng của con người và sự ban phát đặc biệt của trời đất. Qua đèo nhằm lúc trời mưa hoặc sương mù, thì cảm giác như ta lạc vào một tầng nào đó của âm ty địa ngục. Trời đất tối đen như mực, đi như đi trong mờ mờ nhân ảnh rợn lạnh hồn ma bóng quế, gió gào thét tung bờm sóng vào vách đá tưởng đâu tiếng của âm ba muôn nghìn quỷ dữ kêu đòi. Khi trời quang mây tạnh, dưới tầm mắt ta biển đông ngoài kia mênh mang, cho ta cảm khoái về non sông mình bao la và hùng vỹ. Ngược lại, đoạn đường đèo từ thành phố Đà Lạt đổ về Nha Trang 130km qua đèo Hòn Giao - Khánh Lê xuống huyện Khánh Vĩnh của tỉnh Khánh Hòa, thì đó là sạn đạo man man của sức vóc và trí tuệ con người, sự hùng vỹ và dữ dội đã được đẩy lên đỉnh điểm. Có lẽ chỉ được trải thảm đỏ vị trí hàng đầu những con đèo trên đất nước. Khi xe đổ dốc trên đường đèo này, điều làm ta chợt nhớ đến lại là hành trình mà thầy trò Đường Tăng muôn dặm thỉnh kinh cầu Phật đạo. Hoặc giả là chợt nhớ đến Sạn đạo vào Hán Trung mà Ngụy Diên khuyên đốt trong tác phẩm Tam Quốc Chí của La Quán Trung. Nhiều lắm, nhiều lắm, rồi nào đèo Ngang thơ mộng của Huyện Thanh Quan nữ sỹ đã đi vào lịch sử thi ca và ngưỡng vọng hồn người, nào Mang Giang, An Khê trên tuyến QL19 từ Gia Lai đổ về Bình Định. Đèo Cù Mông, Đèo Cả, Đèo Rù Rì đoạn Bình Định Phú Yên vào Nha Trang trên QL1A.v.v… Mỗi con đèo trên đất nước này đều đẹp, đều nên thơ và hùng vỹ, khó có thể nói nơi nào đẹp hơn, thơ mộng hùng vỹ hơn. Điều có thể giải minh cho cái đẹp của Violăc có lẽ ở sự hoang sơ của nó, ở sự còn nghèo và khiêm tốn. Rừng thì vẫn trầm hùng đấy nhưng chưa đủ nghĩa đại ngàn, đường thì vẫn uốn lượn quanh co khúc khuỷu đấy nhưng vẫn còn chút mặc cảm thua thiệt. Cái đẹp của Violăc có thể ở chỗ nó hiu hắt và quạnh quẽ, khiêm tốn và nghèo khó. Nó làm ta chạnh nghĩ về con đường xuyên sơn của ông cha ta thuở nước non này vài trăm năm trước, lúc chỉ ngựa xe và võng cáng trên đường xa vạn dặm. Với làn đường rộng trung bình bốn mét, nó thiếu đi tính hoành tráng bởi sự can thiệp của bàn tay con người. hai bên đường lòa xòa lau lách làm cho sự hắt hiu càng thêm tác động đến tình cảnh thân đơn bóng chiếc đường xa. Bởi vậy ta thấy hình như nó đẹp một cách gần gụi mà cổ kính.
Hơn 700km đường thiên sơn vạn lý, mưa nắng thất thường, gió sương dầu dãi, đi qua bao làng mạc quê nhà, đi qua biết bao nhiêu yêu thương ấm áp. Tình đất tình người, với tròm trèm bốn đêm năm ngày làm cuộc nhàn du. Điều để lại trong nhớ nghĩ mỗi người chúng tôi chẳng thể nào đo đếm được. chẳng thể gọi tên cho đúng nghĩa ước mong mình, chỉ ôm ấp trong lòng một tình yêu ngày càng thiết tha hơn về bầu bạn, về con người và quê hương đất nước, như một tứ thơ ngân rung từng li ti mao mạch dẫn nguồn máu nóng ấm truyền lưu trong tâm hồn và huyết quản. Tiếc thay tài sơ trí mọn không thể tạo tác nên một bản trường ca đủ nghĩa hàm ơn bao thế hệ máu xương, đã hiến mình cho trời đất của ta hôm nay dài rộng nguy nga trong dáng hình giang sơn cẩm tú.
Tam Kỳ, 24/7/2013
Nguyễn Đức Dũng

Bài thơ sông núi



 Bài thơ sông núi
Ghi chép
I. Khởi hành:


Sau chuyến “giang hồ” bốn huyện miền núi tỉnh nhà vào mùa hè năm 2012 của nhóm bạn văn nghệ, nhà văn Lê Trâm “lẩy vui” cái tựa ghi chép Khúc Tây Hành của tôi rằng: Sang năm làm tiếp “Khúc trời hành…”! Sẽ thật như vậy ở một chừng mực nào đó. Đi, cái khao khát ấy nó rủ rê như lời níu gọi của tình yêu không kém phần mê hoặc, như lứa đôi đang kỳ thèm ấm nóng hơi nhau. Vậy là đến hẹn lại lên. Chúng tôi đi.

Điỉnh Xuân Mãi
Từ thành phố Tam Kỳ, chúng tôi xuất phát vào sáng sớm ngày mùng 8 tháng 7 năm 2013 này, theo lộ trình đã được dự định, đón nhà thơ chuyên trị “bốn câu” Võ Bá tại ngã ba Cây Cốc, Thăng Bình. Từ đó theo QL 14E trực chỉ thị trấn Tân An của huyện Hiệp Đức. Thái Bảo Dương Đỳnh, Nguyễn Cường và cô sinh viên báo chí năm hai Thái Thị Xuân, nguyên học trò cũ của “Thầy Cường” đã đón đợi từ sớm. Đoàn làm ngược lại hành trình năm cũ tìm lên Khâm Đức. Để từ đó men theo dãy Trường Sơn hùng vỹ mà nhìn ngắm cho thỏa mộng lãng du quê xứ nước non mình. Đường xa vạn dặm thiên lý man man, mà lòng ham hố của con người thì không hạn định. Đành vậy, nên theo như kịch bản đã tạm thống nhất, chúng tôi dừng chân ăn trưa tại thôn mười Phước Hiệp, trong nhà người em cũng đặt điều thơ phú Nguyễn Tư Phú Đông của tôi. Đây là xã thuộc vùng thấp nhất của huyện Phước Sơn tiếp giáp với Hiệp Đức, một ngôi làng lẻ loi ốc đảo giữa núi rừng, chỉ khoảng dưới một trăm hộ rải rác men theo QL14E này và lẩn khuất những mái ngói đỏ nhấp nhô sườn núi trong miên man xanh của cây trái vườn nhà. Đa số là dân từ Hội An, Hiệp Đức, Quế Sơn lên lập làng từ thời ông Diệm, đời sống của cư dân đã may mắn vượt qua được cái đận gian khó đói cơm lạt muối bởi không có đường giao thông thuận tiện. Nay đây đó những ngôi nhà khang trang đẹp đẽ lần lượt được xây nên thay thế tranh tre dột nát một thời, ti vi xe máy đã lên đời, con em được hai buổi đến trường miệt mài “điện sách”. Bà con đang ngày càng nỗ lực vươn lên làm giàu bằng kinh tế vườn rừng, chăn nuôi và các dự án của nhà nước hỗ trợ. Nhưng để dừng chân ở đây, chúng tôi phải mở hàng bằng một cú lạc đường hết sức ngờ nghệch và bữa cười đau ruột ngay tại cửa ngỏ nhà mình!? Số là sau khi vào thăm khu căn cứ cách mạng và thắp hương viếng các Văn nghệ sỹ đã hy sinh trong cuộc chiến tranh giải phóng giành độc lập mà bà con ta hay thân thương là “khu Ông Công” tại xã Sông Trà của huyện Hiệp Đức. Vì mê mải chụp hình nên nhà thơ Huỳnh Trương Phát, người không biết bao nhiêu lần đã đặt chân đến nơi này vẫn ngơ ngẩn cùng với cái ham hố mới mẻ Nguyễn Cường, các vị ngon trớn mà chạy vào tuyến Đông Trường Sơn đang thi công, đến khi không còn đường chạy nữa mới biết mình bị lạc. Báo hại anh em cứ nóng sôi bụng dạ mà chờ, mà điện thoại chẳng ai nghe, mà mất sóng số điện thoại này tạm thời không liên lạc được. Không lạc ngay từ cửa nhà mình mới là chuyện lạ, phần thì đường ngon như gái chưa chồng hơ hớ thế kia, phần thì rừng núi mang mang nỗi niềm đất nước. Cái nhìn đã mở ra khai phóng cảm xúc không lời không đầu không cuối bởi khí thế rạo rực của sự sung sướng được đi một chuyến, được rời bỏ những lo nghĩ vụn vặt đời thường vợ rầy con khóc của đám văn nghệ sỹ quen thói mộng mơ, chuyên thả hồn trên cõi không trọng lượng. Mà trước ta không thấy bóng đồng hành/ mà sau ta không còn ai để hỏi/ điện thoại a lô không có sóng/ ngẫm bao la kia mà run sợ. Thôi thì cứ cắm đầu cắm cổ mà chạy mà rủa thầm anh em sao nỡ bỏ bạn bè trong cơn tự sướng, ai ngờ đâu nỗi cô đơn kia chính là cái bẫy ngẩn ngơ mình tự gài mình.
Phước Sơn địa đầu vẫn còn nguyên mãn nhãn núi non hai bên đường, sự lãng mạn của tầm mắt đã được mở hết góc nhìn cho thỏa thuê cung đường cửa ngỏ dẫn vào phố núi Khâm Đức. Đây là cung đường của thi ca nhạc họa bởi những cung bậc gợi mở, những giai điệu núi đồi biến tấu nhẹ nhàng mà dìu dặt, những trầm thiết sắc màu miên man mà âu yếm mắt nhìn, sự hào phóng đất trời đã ban phát riêng cho một khoảnh núi non hữu tình thơ mộng này sự uyển chuyển và mềm mại đầy nữ tính, như những sơn nữ vừa thẹn thùng e lệ nấp sau lưng bạn mà ngạc nhiên trước thán phục của xì xầm khách lạ, lại vừa không giấu giếm nỗi tự hào khi khoe cái đẹp quyến rũ độc đáo chỉ riêng mình mới có. Một điểm nhấn bù trừ cho sự dữ dội và hùng vỹ, gãy gọn mà đột biến của đặc trưng núi rừng xứ Quảng. Xa kia, ngọn Xuân Mãi lừng lững đỉnh cao “Bài thơ nhờ độc giả Phước Sơn đặt đề” của Trinh Đường tiên sinh, câu thơ như ám vào lòng những con người cũng vì tội nợ văn chương mà đánh đường tìm thi tứ. “Xa em anh biết tựa vào đâu / Vắng em anh còn chưa tới nửa / Đêm nay ôm trọn Phước Sơn mình / Lấy cả núi rừng kê gối ngủ”. Ôi! Tiên sinh còn có núi rừng để kê gối chớ nhóm hậu thế chúng em chưa biết đêm nay sẽ gởi giấc mộng lòng của mình vào chốn nơi nào, bởi chưng đoàn VNS thực tế sáng tác lần này nằm ngoài kế hoạch và quy chế của tổ chức Hội VHNT tỉnh, lại sinh hoạt ở hai cấp quản lý khác nhau. Nói chữ là phong phú đa thành phần nhưng gọi thẳng ra lại là một nhóm quân có phần ô hợp. Hội tỉnh, hội thành, hội CLB kể cả hội viên của chả hội nào… Chẳng qua thèm đi quá mà thậm thụt rủ nhau thôi. Vậy nên ngoài cái giấy giới thiệu của Hội VHNT Quảng Nam cho trưởng đoàn tạm chọn và mấy tờ công văn giới thiệu của Văn nghệ Tam Kỳ thì đoàn coi như tự làm cuộc trường chinh bụi bặm thế thôi, không thật đủ điều kiện để liên hệ với chính quyền địa phương nhờ giúp đỡ. Vậy mà hình như ông xanh kia cũng còn thương những lứa học trò ham vui tối dạ của Tố Như, nên chi đi đến bất kỳ một chốn nơi nào, gặp bất kỳ một ai cũng đều nhận được sự hậu đãi chí tình, khiến cả nhóm văn nghệ kỳ khu không ai không cảm động.
Nhận được tin của nhà thơ Thái Bảo Dương Đỳnh về việc có VNS đi thực tế sáng tác ghé ngang Khâm Đức, anh Phạm Phú Vinh, trưởng phòng VHTT huyện Phước Sơn đã nhiệt tình tiếp đón đoàn ngay tại cửa cơ quan Trung tâm VHTT huyện, sau tuần trà nước thân mật, anh Vinh trực tiếp dẫn đoàn lo chỗ nghỉ ngơi qua đêm tại nhà khách Bưu Điện rồi xúm xít hàn huyên trong bữa cơm tối thâm tình, cùng đến chung vui có các anh Tài, anh Tuấn bác sỹ và anh Thọ phó phòng, kèm theo cô bé Dung cao ráo đẹp người, vừa ra trường khoa báo chí khóa 32 trường Đại học Khoa học Huế. Nói chung đều là dân ít nhiều dính dáng đến văn hóa, văn nghệ cả. Chủ khách chuyện trò râm ran trong tiếng cười tiếng nói, chuyện quê chuyện xứ, chuyện đất chuyện người, rồi thì những kỷ niệm một thời tuổi trẻ và công tác cứ kéo dài mãi bên ly rượu ấm nóng. Để thuận tiện cho chuyến “công cán” có phần đặc biệt của chúng tôi, bằng quan hệ thân hữu, anh Vinh đã liên lạc với đồng nghiệp tại huyện Ngọc Hồi tỉnh Kon Tum “gởi gắm”. Chỉ vài cuộc a lô những tưởng đưa đẩy thế thôi mà chúng tôi đã nhận được biết bao nhiêu ấm áp ân tình và sự giúp đỡ vượt quá mong ước của một chuyến lữ hành. Ngồi viết lại những dòng này, ngoài cảm nhận về một chuyến đi đầy kỳ thú, còn là những gặt hái quý giá về tình người, tình quê hương, tình đồng nghiệp, những người làm công tác văn hóa văn nghệ, những tâm hồn biết yêu quý cái đẹp, yêu quý sự thiết tha nỗi đời nỗi người trong cuộc sống vẫn còn bộn bề gian khó, còn nhiều thử thách và nỗ lực để, làm cho cuộc đời ngày một đáng trân trọng thiết tha hơn.
Chia tay đoàn bịn rịn tại ngã ba địa đầu thị trấn Khâm Đức, anh Phạm Phú Vinh chúc chúng tôi có một chuyến thực tế sáng tác đạt được kết quả mỹ mãn. Tranh thủ làm mấy cú bấm máy lưu niệm giữa ngã ba đường, chúng tôi chào nhau trong bùi ngùi và mong có ngày gặp lại, mới thấy câu hát của cha ông mình ngày xưa vẫn mãi là bài học dặn dò không bao giờ cũ ”Khi xa chỗ ngõ cũng xa / Khi gần Vĩnh Điện La Qua cũng gần…”

II. Chiều mưa biên giới:

Vốn là người đã quen dịch chuyển bởi cái nghề cầu đường rày đây mai đó trước kia, nên chi bao giờ trong ba lô túi xách của tôi cũng tương đối đầy đủ đồ nghề cho những bận rời nhà, chẳng những bản đồ toàn tỉnh và bản đồ chi tiết thành phố Kon Tum, giấy bút lẫn ghi chép để “hành nghề” mà còn có cả kim chỉ linh tinh các thứ nữa…Bởi vậy, khi đoàn xe máy chúng tôi vừa qua khỏi địa giới hai tỉnh chưa được mấy nỗi, thì tất cả phải dừng chân bon bon trên đường thiên lý ngay khi bám đoạn đèo Lò Xo nổi tiếng thuở nào. Lạnh. Ở Quảng Nam mình đang khi thời tiết vào độ nóng bức kinh người thì giờ đây trên đỉnh Trường Sơn, nơi vừa mới mon men vào xứ Kon Tum núi rừng Tây nguyên cực bắc, cả nhóm đã chịu, không thể nào chạy xe được nữa. Tôi hể hả ráp hai tay của chiếc áo bành dày trục được chuẩn bị sẵn để thi gan cùng sương gió thì anh em ai nấy đành phải lôi những chiếc sơ mi mỏng mảnh đem theo để mặc vào vài ba lớp, có anh vỏn vẹn hai chiếc áo quá mỏng không đủ ấm người, đành phải chơi luôn cả quả đi mưa tiện lợi giữa trời trưa nắng đổ lửa trông ngô nghê đến tội, thế mới biết “đi một ngày đàng học một sàng khôn…”, tuy vậy cũng không hoài, con đèo quanh co trong chiến tranh đã thực sự được “kéo” ra cho bớt lò xo đi đúng như lời tuyên bố hùng hồn của tướng Đồng Sỹ Nguyên dạo ấy, nên có vẻ cũng đã bớt hung hiểm so với hình dung của chúng tôi và lời dặn dò cảnh báo của những người đã từng qua lại. Càng vi vu cái lạnh càng ngấm hơn, con đường trước mặt cứ thế quanh co giễu cợt và mời gọi, ngày càng nâng dần lên. Sự quyến rủ càng làm say sưa bao ánh nhìn, áp suất không khí đã bắt đầu làm ù tai những chàng “kỵ xa” tân thời. Mặc, thấm béo gì kia chớ khi lòng mình được mở ra hào sảng trước trời đất bao la và núi rừng phóng khoáng. Chúng tôi chạy xe qua khu vực của huyện Đak Glei này bằng tâm thế của những kẻ xa nhà tí chút. Đây cũng chính là quê hương của tục lệ “Củi hứa hôn” của đồng bào người Giẻ T’riêng. Khi nhà có con gái đến tuổi cập kê thì các cô bé ấy ngày ngày vào rừng lấy củi về để dành cho lễ bắt chồng. Cũng chính khu vực huyện Đăk Glei này, có ngã ba rẽ về hướng đông để đến được Khu Bảo tồn thiên nhiên Ngọc Linh, nơi có giống sâm cực kỳ quý hiếm mà quê hương Quảng Nam cũng được hưởng phần ở mé đông bắc của ngọn núi hùng vỹ này. Rất tiếc thời gian và lộ trình đã không cho phép chúng tôi tìm đến, cũng như suốt chuyến đi đã phải nuối tiếc bỏ qua rất nhiều điểm đến đầy thèm muốn, đành hẹn lại một dịp mơ hồ khác. Nếu ví von tuyến đường xuyên sơn chiến lược này là trục xương sống của Tổ quốc, thì địa phận của mỗi địa phương cấp huyện mà nó băng qua có thể xem như là một đốt xương sống. Những tên làng tên đất Đăk Man, Đăk Pék, Đăk Kroong v.v…mới mẻ với chúng tôi hứa hẹn những phát hiện nhiều hấp dẫn, giống như những mạch máu li ti dẫn dinh dưỡng nuôi hình hài Tổ quốc thiêng liêng và bi tráng. Dừng xe ở một đoạn đường quá đẹp, cái hùng vỹ nên thơ gợi bao nỗi tự hào khi trong huyết quản của mình ấm nóng giòng máu con Hồng, cháu Lạc, truyền dẫn từ đời này sang đời khác tâm thức rằng ta, giòng giống mẹ Âu Cơ cha Lạc Long, hậu duệ của Đinh, Lê, Lý, Trần, hậu duệ của Bà Trưng, Bà Triệu, của anh hùng áo vải cờ đào Quang Trung Nguyễn Huệ, vụt lớn Phù Đổng đánh đuổi ngoại xâm giữ vững cõi bờ, đã đổi bao nhiêu mồ hôi và nước mắt, bao nhiêu núi xương sông máu dày công mở mang khai phá và gìn giữ gấm vóc non sông này. Lòng xúc động thật sự dẫu chưa vụt hiện thành một tứ thơ, một đoạn văn nào nhưng ở mỗi tâm tình sâu kín nhất của chúng tôi, đã chia sẻ tỏ bày tình yêu quê hương đất nước mình, tự tình dân tộc máu đỏ da vàng mình một cách chân thành nhất, như sẻ chia một nỗi niềm quý báu giữa bạn đồng hành. Ôi quê hương đất nước! Sao người đẹp và nên thơ đến vậy! Sao người thiêng liêng và hùng vỹ nhường kia! Chúng con muốn quỳ xuống đây, giữa rừng thiêng núi đỏ này mà hôn vào từng gốc cây ngọn cỏ, mà nâng niu từng nắm đất cha ông truyền lại, máu trong tim con làm một triện son, mỗi hơi thở con là một dòng ký tự ghi vào địa bạ văn bằng cương thổ, nguyện làm muôn một sở hữu chủ kế thừa di sản tiên tổ đã đắp bồi. Con muốn nằm xuống đây ngữa mặt nhìn trời, hỏi những mây trắng kia đâu là quê nhà, hỏi những cơn gió kia đâu là trú xứ. Ôi! những tưởng nỗi niềm này cụ thể đến cầm nắm được trong bàn tay của mình mà dâng tặng cho nhau…
Bản Phu Cựa (Lào)
Cơn mưa đầu mùa đón chúng tôi ở cuối xã Đăk Môn, đoạn chuẩn bị tiếp giáp với huyện Ngọc Hồi. Trời vừa mưa vừa nắng, từng dải nắng xuyên qua màn mưa trắng đục cứ chói chang vào một phần mặt, gió vùn vụt bên tai, những hạt mưa quất xối xả vào mắt, vào mũi. Mặc, cứ thế chúng tôi uốn lượn những vòng xe men theo những vách taluy sừng sững đỏ, men theo những vực thẳm hun hút phía bên dưới thung lũng kia mà trầm trồ sung sướng. Vút qua, vút qua quê hương mình, vút qua những bản làng của đồng bào dân tộc nằm khiêm tốn đến đáng yêu bên những cánh rừng, bên những sườn núi thoai thoải gợi ra bao cảnh yên bình mộc mạc, vút qua những địa danh hào hùng máu lửa một thời chiến trận. Cứ thế, hết mưa lại nắng, những cơn mưa nắng thất thường dạo đầu cho một mùa mưa Tây Nguyên đến sớm đón chúng tôi. Khi đoàn đến được thị trấn Plây Kần thì đã quá trưa, đây là trung tâm của huyện Ngọc Hồi, nơi có tiếng gà ba nước cùng nghe. Đã nhận lời giúp đỡ đoàn từ trước, anh Huỳnh Huy Quyền, một chàng trai Nghệ An, chuyên viên phòng VHTT huyện gặp chúng tôi tại một quán cà phê phố núi. Qua trao đổi, anh đưa ra nhiều đề xuất hết sức hấp dẫn, dẫu trong thâm tâm chúng tôi cũng đã nghĩ đến nhưng ngại làm phiền hà nên không dám ngỏ lời. Từ đó, Quyền làm một hướng đạo hết sức chu đáo và nhiệt tình, anh vui vẻ kể cho chúng tôi nghe nhiều thông tin quý giá về đất và người ở đây, về nền văn hóa bản địa đặc sắc giúp chúng tôi phần nào hình dung được nơi mình đang đặt chân đến. Đoàn xe nhằm hướng tây theo QL40 hướng về Cửa khẩu Quốc tế Bờ Y, nơi biên giới ba nước Việt Nam, Lào và Kampuchia. Một trong những điểm đến thiêng liêng và đặc biệt của Tổ quốc. Trời ngày càng mưa to hơn, mặc dầu mỗi người đã trang bị đầy đủ áo đi mưa nhưng khi đến được ngã ba Đông Dương thì tất cả đã đẫm ướt, tuy vậy vẻ hớn hở mừng vui vẫn tràn trề lên từng khuôn mặt. Dừng chân thuyết minh về ý nghĩa lịch sử của ngã ba này, Quyền cùng chúng tôi chụp mấy pô hình kỷ niệm, có lẽ đây là một dấu ấn khó quên nhất của chúng tôi trong chuyến đi này. Rời ngã ba Đông Dương, chúng tôi càng lúc càng gần đến vùng biên cương của Tổ quốc, tiếng của Quyền vang trong mưa gió kể cho chúng tôi nghe về một tộc người được xem là dân tộc ít người nhất ở nước ta hiện nay trong cộng đồng 54 anh em chung sống trên đất nước hình chữ “S”. Theo số liệu điều tra tháng 12 năm 2012, cộng đồng người Brâu làng Đăk Mế cách ngã ba biên khoảng 2km về phía thị trấn Plei Kần, có 390 nhân khẩu trên 98 hộ, cùng chung sống với cộng đồng 6 tộc người thiểu số trên địa bàn tỉnh Kon Tum. Điều đặc sắc ở đây là đồng bào hình như còn giữ nguyên được vốn văn hóa khá độc đáo của mình, cũng theo anh Quyền, hiện nay còn một cụ bà duy nhất có hình xăm trên mặt, đó là những hoa văn đẹp chỉ riêng người Brâu mới có, và chỉ người phụ nữ uy quyền nhất, tài giỏi nhất, được cộng đồng già làng tín nhiệm thì mới được xăm mặt, coi như đó là một đẳng cấp cao quý đại diện cho cả tộc người. Tiếc rằng thời gian và cơn mưa đã không cho phép chúng tôi được đến thăm làng, cũng như làm một cuộc đến thăm cột mốc chính thức của ba nước. Tập trung tại trung tâm thương mại quốc tế Bờ Y tránh mưa và chờ làm thủ tục xuất cảnh, Quy
Nhà thơ Huỳnh Trương Phát, Võ Bá & Thái Bảo Dương Đỳnh
ền đưa chúng tôi qua bên kia biên giới, vào phần đất của bản Phu Cựa, huyện Phu Veng, tỉnh Attapư nước bạn Lào, một cụm quán vùng biên chìm trong màn mưa sẫm tối, chúng tôi thưởng thức món xôi Lào dẻo thơm trong những chiếc giỏ đan nho nhỏ xinh xắn nhiều màu, món dế đặc sản của bạn và ly bia Lào đậm đà sưởi ấm cơn lạnh một chiều mưa biên giới hết sức thi vị. Những câu thơ Quang Dũng thấp thoáng hiện về trong ngõ ngách vi tế run lên vì xúc động. Chúng tôi bật điện thoại để gọi về quê nhà nhưng không bắt được sóng, cảm giác mình rời xa quê hương đất tổ đã hiện hình, dẫu rằng nơi đây trên phần đất bạn bình yên và hiếu khách, vẫn có chút cảm giác gì đó gợn buồn không phải cho riêng mình mà còn cho cả những ai đã vì nhiều lý do sinh cơ lưu lạc, thì nỗi ngậm ngùi cố xứ kia hỏi sao không canh cánh bên lòng.

Một đoạn đường đèo Lò Xo

Để trao đổi được với bạn, chúng tôi đành phải qua thông dịch viên Quyền, và hóa ra trong đoàn chúng tôi có người biết nói và đọc được chữ Lào, số là nhà thơ Võ Bá đã từng có ba năm công tác ở nước bạn. Tuy những người dân biên giới này có thể nói rành được tiếng Việt, dẫu sao chúng tôi vẫn cảm thấy có một khoảng cách trong sự hiền lành và hiếu khách kia, đó chính là sự khác nhau về những ý tình dân tộc, mới thấy giá trị của những khái niệm về chủ quyền, về độc lập là những nghĩa lý hoàn toàn cụ thể và thiết thân như máu thịt. Chia tay những người bạn Lào hiền lành và rất mực đáng yêu, chúng tôi trở về trong màn mưa ngày càng “biên giới” hơn, gió biên giới kiêu hùng mà tiêu sái, chiều biên giới mờ xa ảm đạm làm vang lên trong vô âm câu thơ Đỗ Phủ ngậm ngùi. “ Nhật mộ hương quan hà xứ thị/ Yên ba gian thượng sử nhân sầu…”. Ai ai cũng nghe trong tâm hồn mình dấy lên những cảm thức bâng khuâng kỳ thú. Thì cũng núi rừng kia thôi, thì cũng cây lá kia thôi, cách nhau một cánh chim trời, một tầm hú gọi, nhưng cũng chỉ một lúc nữa thôi là ta lại về được tổ quốc yêu dấu của mình, như thể đã từng những tháng năm dài lênh đênh phương trời vô định. Một chuyến đặt chân qua khỏi vùng lãnh thổ nước non nhà mà đã cảm khái biết chừng nào. Chúng tôi xin phép đồn biên phòng của nước bạn để chụp hình cơ quan Cửa khẩu Quốc tế Phu Cựa, các anh vui vẻ đồng ý, thế là trong màn mưa không phải của quê xứ ấy, chúng tôi thả lòng mình hân hoan với một chiều mưa xứ bạn. Trở về đến cột mốc Lào Việt, lại mưa, lại chụp hình lưu niệm, những cơn gió núi rừng thét gào hung hãn vẫn không làm nhụt chí, dễ gì có được lần nữa rong ruỗi phương này, chúng tôi chẳng còn ai sợ hư hỏng máy chụp hình mà trước đó cứ khư khư che chắn, hỏi ai có thể không tiêu vung một lần giữa đất trời này kia chứ. Võ Bá bật mấy câu sở trường tức cảnh “Cùng một sắc mây xanh cỏ biếc/ Hương rừng thơm gió cũng một màu/ Ở đây trời đất dường không biết/ Cột chủ quyền hai mặt khác nhau…”

Trong một quán cà phê xinh xinh mang tên Hương Trầm, đến chung vui với chúng tôi là anh Lê Huyên quê xã Duy Thu huyện Duy Xuyên, trưởng phòng VHTT huyện Ngọc Hồi, anh Bùi Viết Sỹ quê Bình Triều Thăng Bình, phó phòng, chúng tôi thăm hỏi nhau về gia đình và công việc, chưa kịp trình bày, anh Huyên đã mở lời rằng nhận được tin anh em quê nhà đi công tác nên anh đã sắp xếp mọi việc đâu vào đó rồi, nghĩa là anh hết sức thân tình và chu đáo khiến chúng tôi thật sự xúc động, không biết nói gì hơn ngoài lời cảm ơn tấm lòng của một người đồng hương tốt bụng. Cũng chính nhờ các anh đã bố trí tất cả mọi việc cho chúng tôi trong thời gian dừng chân ở huyện này, từ việc phân công Quyền dẫn đường, đến việc liên hệ với hai đồn biên phòng cho phép chúng tôi chuyến qua Lào chiều nay, đến nơi ăn chỗ nghĩ tươm tất. Tự nhiên chúng tôi ai cũng thầm nghĩ rằng nếu chuyến đi này không thu hoạch được bài vở gì thì hóa ra phụ lòng không biết bao nhiêu bè bạn, phụ một tấm chân tình. Nhưng hỡi ơi! Sáng tác và tác phẩm là sự trêu ngươi đánh đố không lường, ai biết được điều gì chờ ta trước trang giấy trắng kia, nơi sẽ tái hiện lại tình yêu cuộc sống, tình yêu quê hương đất nước, những con người ngày ngày vẫn buồn vui sướng khổ bên ta, hay chỉ là những dằn vặt xót buốt về sự bất lực của chính mình. Vì vậy mà đi, mà tiếp tục những truy vấn không bao giờ ngưng nghỉ, như một duyên nghiệp éo le của định mệnh xúi giục ma muội mà cũng rất đỗi hạnh phúc tột cùng, như một mê say lỡ vướng đời vào thì suốt kiếp không thể nào còn mong gỡ bỏ.
( Còn tiếp)
Tam Kỳ ,7/2013
Nguyễn Đức Dũng