Thứ Ba, 17 tháng 3, 2015

“Yêu là yêu như một nhu cầu” Câu thơ tình của ai đó mà tôi đọc được từ trang tạp chí cũ hồi còn ở Mỏ đá Hòn Giang vào mùa đông năm 1975. Song chuyện dưới đây lại là thứ “nhu cầu” khác, bức thiết hơn, hồng hoang hơn của những đòi hỏi con người. Dân Miền Trung chúng tôi gọi là “Thèm”. Thèm ăn thèm uống, là đói cơm lạt muối. Đó là loại nhu cầu mang tính vật chất, đáp ứng những tiêu chuẩn cần thiết cho điều kiện sống của một con người, nó mang nỗi niềm của da thịt, nó hàm súc triết lý của dạ dày, nó thúc hối dằn vặt và xéo dày ruột gan, nó đủ quyền phép làm cho con người có thể rơi vào cảnh huống tồi bại và hèn kém. Tục ngữ có câu “Khi đói đầu gối phải bò…”. Thèm muốn là một cảm giác cám dỗ đầy cạm bẫy, có thể đẩy con người vào bi kịch khi không đủ bản lĩnh để kìm nén cơn kêu đòi dung tục. Ăn uống, ngủ nghỉ và yêu đương xác thịt là nỗi thèm khát bị nguyền rủa truyền đời, đeo đuổi rình rập những khi ta yếu mềm lòng dũng khí. Hoàn toàn khác với nhu cầu tinh thần đẹp đẽ mà câu thơ hướng tới. Kết cấu địa chất khoáng vật của núi đá Chu Lai cũng lạ. Cả một mạch núi nhưng không như ở mỏ Phước Tường – Đá kết tầng. Dạng vật chất kết cấu theo lớp lang, tầng bậc, rất dễ khai thác. Đá Chu Lai là một khối hoa cương cấp I khổng lồ. Siêu cứng, lấp lánh những phần tử hạt dưới nắng trời như ánh kim cương, như những vì sao nhấp nháy lung linh trong đêm tối. Ta cứ hình dung cả dãy núi mênh mang kia là một thực thể đá mồ côi được sinh ra trong quá trình vận động hình thành lớp vỏ trái đất. Nó tạo nên một mạch núi đá liên hoàn và liền khối. Thời trước, tập đoàn RMK của Mỹ đã tổ chức khai thác. Đây là mỏ lộ thiên có trữ lượng tương đối lớn, kế hoạch khai thác hàng trăm năm, tính từ thời thực dân Pháp sang ta. Sử dụng cho xây dựng cơ sở hạ tầng, mở mang đường sá, cầu cống… Sản xuất đá thủ công hoàn toàn bằng sức vai u thịt bắp của tuổi trẻ cộng với nhiệt huyết tin yêu cuộc sống mới. Chúng tôi ào ào xông pha vào khó khăn gian khổ của công việc lao động khổ sai mà hân hoan như một dạo chơi, thụ hưởng những giá trị cao đẹp của cuộc đời. Một ý niệm vinh quang đặt bày tô vẻ quàng vào nghĩ suy của lớp tâm hồn mới. Phơi phới lý tưởng. Khao khát sớm trở thành những công dân hữu dụng. Đóng góp nhiều nhất công sức tâm lực hòng xây dựng quê hương giàu đẹp, đất nước phồn vinh và cuộc sống thiên đường có thật dưới ánh mặt trời. Trong môi trường ấy, sức người đổ ra mỗi ngày mỗi giờ giữa công trường không thể cân đong đo đếm nổi. Chỉ phản xạ sinh lý thường trực cho phép con người nhận thức được rằng mình đang tồn tại và chiến đấu. “Chiến đấu” chứ không phải “làm việc”. Ta phải luôn dung dưỡng trong tâm trí mình sức đề kháng mãnh liệt nhất có thể để chống chọi lại với cái đòi hỏi bản năng trần tục từng giờ từng phút. Sự thèm thuồng. Nhu cầu muốn được ăn uống. Muốn thỏa mãn cơn co thắt của gan ruột và phản ứng bài tiết dịch vị của vòm miệng. Sự thèm ăn ám ảnh cả vào trong giấc ngủ. Ban ngày đổ tống tháo sức lực ra với xà beng búa tạ, với gióng gánh cuốc xẻng, vậy mà đêm đêm, lứa trẻ trai mười tám đôi mươi chúng tôi gặp toàn những giấc mơ ngon. Tuổi đương độ phát tiết anh hoa chung sống vui đùa bên những cô gái xinh tươi ngon giòn con mắt mà hiếm hoi những mộng mị đẹp. Năm thì mười họa mới có được bữa liên hoan bồi dưỡng khi sơ kết quý hoặc sáu tháng kế hoạch. Lúc đó mới nghe được vài thậm thụt nhỏ to ngoài bãi đá vào giờ giải lao: “Hồi hôm tau bắn máy bay…!” Môt khoái cảm điều tiết tự nhiên rất người mà mất hút giữa giai đoạn sung mãn nhất. Nó như thứ van xả tự động của một nồi hơi khi bị nén quá đầy. Than ơi! Chúng tôi những năm tháng đẹp đẽ nhất của một đời người vậy mà mấy khi được lèn nén để mong bật xả… Để giải tỏa nỗi thèm thuồng bu bám luôn dày vò. Những câu chuyện kể về món ăn ngon, những bữa ăn no đầy đã chìm khuất từ hồi tu huýt tu lai nào đó lại được đào xới lên, dọn ra bày biện chi li lại cho nhau thụ hưởng. Hâm nóng ký ức ngon miệng ấy mà cảm nhận dịch vị đang lén lút đẫm ướt vòm họng. Sợ bè bạn trêu cười, thỉnh thoảng có đứa lại tìm cớ quay mặt về hướng khác, như thể đang làm một việc gì đó bất chợt nghĩ ra. Nhưng tất cả chúng tôi đều biết tỏng rằng bạn mình vừa giấu đi một lần nuốt nước miếng. Quy luật cung cầu lại tìm cách nảy nòi. Mỗi đội sản xuất vài trăm công nhân lao động. Với đồng lương chỉ mang tính ví dụ vậy mà rồi cũng có người biết chắc bóp để xoay xở sinh lợi. Ban đầu chùng lén thăm dò, sau không thấy cấp trên có ý phê phán gì nên mạnh dạn công khai. “Bung ra” làm ăn bài bản hẳn hoi. Những tay “Cơ hội” lanh lẹ ấy tranh thủ từng thời gian nghỉ hiếm hoi liên hệ ngoài chợ thị trấn An Tân lấy hàng về bán lại cho anh em trong đơn vị. Chủng loại không lấy gì làm phong phú vì chưa “trường vốn”. Song chỉ vài mặt hàng “nóng” thôi mà đã giải quyết được biết bao nhiêu cái miệng háu ăn giữa thời buổi khủng hoảng dinh dưỡng trầm trọng ấy. Ngoài hai mặt hàng chủ lực chạy nhất là bánh chưng nhưn thịt heo mỡ và kẹo đậu phụng. Những “Đầu nậu” này còn “kinh doanh” thêm đường bát, thuốc lá và vài loại nước ngọt có ga. Một loại hàng hóa nữa cũng đã được dấm dúi tuồn vào nhưng phải bán chui và chỉ dành riêng cho “khách ruột”. Nghĩa là dạng bạn hàng cực kỳ “uy tín”. Uống rượu mà không để cho người khác phát hiện ra mình vừa lai rai vài ly ba xi đế. Có cho thêm vàng cũng đố đứa nào dám ăn gan hùm mật gấu mà để người ta thấy mình say rượu! Sợ kỷ luật. Từ khi xuất hiện mấy cái “Quán” tài tử này thì hầu như đám trai trẻ chúng tôi không còn biết đến tiền là gì nữa. Tới tháng nhận lương, chủ quán “bắt tay” với tài vụ xử lý nhanh gọn khoản “thu nhập gọi là” sau cả một tháng trời trần lưng ngoài bãi đá mặc cho mưa nắng đỏng đảnh thất thường. Từng đoàn công nhân xếp hàng dài chờ vào văn phòng Ban chỉ huy để ngoáy một phát vào cái ô hình chữ nhật bé tẹo trong sổ lương đơn vị là xong! Mọi thừa thiếu được “lũy kế” vào cuốn sổ nợ đời trong tay chủ quán. Thường thì thiếu lại chút ít. May mắn lắm mới gần trùng khít với khoản lương được nhận. Lâu lâu, đứa nào được giải quyết cho phép về thăm nhà thì cả nhóm bạn chơi thân với nhau phải quyết tâm cao độ, ăn nhín nhịn thèm, tránh trớ hàng quán như tránh bệnh dịch, dứt khoát hạn chế ghi sổ dành lại chút ít chung vào để bạn có đủ tiền tàu xe và “quà bánh đại khái” cho một chuyến thăm nhà. Cứ thế mà xoay vòng, cho nên cả năm trời mới có dịp về thăm cha mẹ anh em ruột thịt đôi ba bữa. Cũng do vậy mà truyền miệng câu nói vui: “Tăng xin giảm mua hút tuyệt đối để đi đến giai đoạn xin toàn diện”. Một cách phê phán nhẹ nhàng những ai ky bo chuyên chôm chĩa lợi dụng sự hào phóng của người khác, mà cũng vừa tự chế nhạo, dặn dò mình bớt tiêu pha vung phí. Có vài tay “khôn lõi” không thèm “mở quán”. Phần sợ khó thu hồi vốn phần nhát gan không dám kinh doanh, thương trường là chiến trường kia mà, người xưa đã từng dạy rồi, lơ tơ mơ chỉ có nước “sạt nghiệp”. Đó là những tay có sẵn máu đỏ đen di truyền. Cờ bạc thì dứt khoát chẳng ai dám nghĩ tới rồi, song mưu ma chước quỷ ở đầu óc của hậu duệ Đổ Bác lại sáng tạo ra được vài hình thức mới. Ăn thua rất cay cú nhưng khó có thể quy trách nhiệm để xử lý kỷ luật. Đó là các kiểu cá độ. Ban đầu cũng do mấy thằng “hẻo” quá khơi mào. Những đứa ăn nhiều, ăn không biết no. Nhỏ người mà lớn bụng. Lại hay đau ốm vặt, sức khỏe kém nên lương thấp. Cảm giác đói thèm vô phương chữa trị. Mấy tên này đương nhiên được xếp loại “Tín nhiệm thấp” chót bảng. Không được chủ quán để mắt tới chào đón như những “thượng đế” khác. Thường xuyên chầu rìa góp chuyện vặt quanh những bữa ăn bồi dưỡng của đồng đội. Mắt hau háu nhìn vào từng miếng cắn miếng nhai của mọi người mà nói tầm phào, chẳng đâu vào đâu, cốt để lấy cớ nhìn người ta ăn cho đỡ thèm. Nhân nói vu vơ ấy mà nuốt nước miếng. Thông điệp thường xuyên như một thứ phép màu của mấy tay này là chuyên thách độ: - “Ơ! Tau có thể ăn gọn một cặp đường đen…” - “Tau có thể xơi tái 5 phong lương khô 701…” - “Tau có thể giải phóng 5 cặp bánh chưng..” - “Ơ! Tau có thể … một gói kẹo đậu.v.v. và v.v…” Đứa mô dám độ không? “Nhỏ người to con mắt” là kiểu ví von của ông bà mình ngày xưa nhằm chê trách những kẻ háu ăn. “Vào độ” thua sặc máu nhưng còn biết cách nào? Ký sổ không được! Vay mượn không xong mà cái sự thèm kia nó bất kể chi nhướng, không biết tự lượng thân phận bọt bèo. Mà không biết cái thứ nước miếng khốn khổ đó ở đâu ra mà nhiều đến thế, cứ đầy ứ miệng mồm làm tình làm tội. Đành mặt dày mày dạn cố đấm ăn xôi, rồi ra kệ thây hậu họa, cùng lắm thì chịu trận cho chủ quán nó chửi bới chán chê rồi cũng qua một quận. Vậy là độ. Lúc đầu thì độ ăn bánh chưng, vừa no vừa béo, thanh toán cơn thèm lưu cửu hành hạ đêm ngày. Mức khởi điểm như người ta tổ chức đấu thầu là 5 cặp bánh chưng. Đa số chào thua khi lột vỏ cái bánh thứ năm, nghĩa là chưa giải quyết trọn vẹn 3 cặp bánh, thế là thua độ, phải chịu trả tiền mức phạt gấp đôi số thách độ ban đầu, cũng có nghĩa là phải chịu ghi nợ chủ quán 10 cặp bánh chưng để dành cho mấy tay “Thầu độ” ăn dần không mất tiền. Tôi là một trong số không nhiều những tên thua độ ở cặp bánh thứ tư. Trợn mắt nín thở để giữ cho khỏi mửa trào ra ngoài phần mình vừa ngốn qua cửa miệng. Cầm cái bánh thứ bảy lột vỏ mà nước mắt lưng tròng. Trước mắt mình không còn là cái bánh chưng đầy cám dỗ vẫn hằng mơ ước mà là một hình khối chữ nhật bằng nếp nấu nhuyễn có các số đo thể tích 8cm x 8cm x 4cm đầy trêu cợt và mai mỉa. Giới hạn thời gian quy định nghiệt ngã của trận đấu đã gần hết hạn. Thế là thua, là chung độ trong sự nhục nhã ê chề vì miếng ăn đầy tủi hổ. Mức thách 5 cặp bánh chưng dừng lại khá lâu, biết bao nhiêu hảo hán đành cúi đầu khuất phục. Những tay thầu độ vênh váo cậy tiền khinh người ra mặt. Vậy mà một chiều, khi công nhân đang tắm rửa sau buổi làm mệt mỏi ở những cái giếng nước tự đào quanh xí nghiệp, bỗng dậy lên tiếng hò reo vang động một góc trời. Té ra bên đội 2 đã xuất hiện anh hùng cái thế. Chàng ta dõng dạc tuyên bố sẽ giải phóng gọn 10 cặp bánh chưng sau thời gian dài náu mình im tiếng. Trời đất ơi! Vậy mà anh ta đã thắng. Một chiến thắng vinh quang vỗ mặt mấy tay thầu độ cậy thế hiếp người. Hay tin, cả rừng người tụ tập trước sân xí nghiệp, ai nấy đều nghe hả lòng hả dạ, tung hô khen ngợi không tiếc lời, kẻ đã rửa được mối hận thèm ăn thua độ của mấy trăm con người ôm nỗi hờn căm nuốt cay đắng vào lòng, vừa mất tiền vừa chịu tiếng đời thị phi báng bổ bấy nay. Thói thường ai cũng khó ưa những tay thầu độ, như tâm lý ghét người giàu có hợm hĩnh của kẻ nghèo hèn. Song ông trời lại quen thói phù thịnh chớ chẳng phù suy, nên chi ngậm ngùi kia của lực lượng thèm ăn kìm nén lâu ngày nay được dịp bùng vỡ, một hạnh phúc lạ lùng xoa dịu niềm thống khổ trầm luân đè nặng biết bao đầu xanh tuổi trẻ. Chàng trai lâu nay vốn vô danh tiểu tốt, không một chút tài vặt thời thượng như mọi người, chìm khuất vào đám đông câm lặng, bỗng chốc đổi đời. Sự nổi tiếng đã đem lại niềm vui lớn cho không chỉ riêng anh, anh trở thành bạn bè thân thiết của cả xí nghiệp. Sau kỷ lục bánh chưng, kỷ lục kẹo đậu phụng, kỷ lục lương khô cũng lần lượt xuất hiện và thi thoảng bị phá vỡ. Nhưng có một kỷ lục lạ đời chắc chắn rằng chỉ Việt Nam mình mới có. Đó là kỷ lục đập đá tảng bằng búa tạ… Để phong phú thêm hình thức thi đấu nhằm tăng phần thú vị hấp dẫn trong các cuộc tranh tài. Giới thầu độ nghĩ ra được nhiều cách gầy độ và “gài độ” hiểm hóc, làm điêu đứng dân chơi thèm ăn cay đắng, những trận thua xiểng liểng tức mửa mật. Kỳ lạ ở chỗ là bầy thiêu thân vẫn không hề biết sợ, danh sách “tử trận” cứ nối dài theo những trận cười nói hò reo vang động công trường. Những bàn bạc trao đổi phương cách thi đấu được truyền tai nhau. Cũng bày ra chiến thuật chiến lược đấu sách hẳn hoi mang tính “có nghề” phù hợp cho từng trận giao tranh nảy lửa. Kinh nghiệm về cách ăn như thế nào để giảm no, giảm ớn được đề ra. Làm thế nào để chống lại cơn co thắt nôn mửa khi thức ăn đã tràn lên cổ? Tắm trước hay tắm sau khi thi đấu v.v. và v. v…Cũng đã gặt hái được kết quả hữu hiệu. Nhưng sự ranh ma quỷ quyệt của đối phương cũng chẳng hề thua kém. Những ràng buộc về thể thức thể lệ thi đấu được bổ sung liên tục để phù hợp với tình hình “chiến sự” diễn ra ngày càng éo le và khốc liệt. Để cổ súy phong trào, tập thể đã phân hóa hình thành rõ rệt lực lượng giữa hai giới tuyến. Giới thầu độ và đám chủ quán ăn theo tuy ít ỏi thành viên nhưng lại nắm quyền sinh sát trận địa. Ngược lại, nguồn cổ vũ lớn lao và niềm cảm mến sẻ chia “chiến hữu bị loại khỏi vòng chiến đấu” đã hâm nóng gắn kết tình đồng đội của đông đảo phe bại trận. Danh sách các loại hình thách độ quái chiêu đã xuất hiện thêm những kiểu độ nực cười. Độ đục lỗ bắn mìn xem cặp thợ nào đục nhanh hơn, năng suất hơn. Độ đập đá 4x6 bằng búa con 1kg sau thời gian quy định xem ai có khối lượng sản phẩm cao hơn. Độ đọc thơ, ca dao bắt vần. Siêu nhất là vụ độ răng, giả hay thật, quả này đã làm điêu linh biết bao nhiêu tay hiếu kỳ phải ôm hận ngậm bồ hòn làm ngọt. Cho đến tận bây giờ dầu sự việc xảy ra đã gần 40 năm rồi, mà nghi án vẫn còn treo lơ lững. Chẳng biết cuối cùng rồi hàm răng đẹp đẽ, đều tăm tắp và trắng ngà ấy của anh Dũng là răng thật hay răng giả…? Trong kỹ thuật khai thác đá thủ công, người ta cho phép sử dụng một lượng thuốc nổ phù hợp để dùng vào những trường hợp gặp tảng đá nhỏ, không đủ điều kiện để đục lỗ bắn mìn. Định lượng thuốc nổ tuy vừa phải nhưng cũng không đạt chỉ tiêu tiêu hao vật liệu nổ quy định. Đó là phương pháp đánh mìn “Ốp”, tức kẹp khối thuốc nổ vào một điểm phù hợp, nổ tác động để làm nứt vỡ tảng đá ra cho công nhân dùng búa tạ tiếp tục đập thành đá hộc 25x30. Từ khi có “chiêu” độ đập đá tảng, rất nhiều tay nghề đã được nâng lên, người ta tìm kiếm biện pháp tối ưu nhất để thực hiện những ràng buộc hết sức hóc hiểm của cuộc đua tài. Ngoài giá trị vật chất là bánh chưng, lương khô, kẹo đậu v.v… thì tính tự ái của người thợ khai thác đá trước anh em đồng đội cũng đã bị thách thức. Thua độ không chỉ đơn giản là thua phần bánh quà đã giao kèo, mà còn có nghĩa chứng tỏ mình tay nghề kém cỏi trước bàn dân thiên hạ, những đồng đội đồng nghiệp luôn chung cùng mưa nắng vui buồn, danh dự nghề nghiệp bị tổn thương, ai mà chịu cho được. Vì vậy, những cuộc độ đập đá tảng luôn thu hút đông đảo khán giả, tất cả đến để xem cho vui và cũng đến để học hỏi kinh nghiệm của nghề nghiệp. Trong đông đảo tay chơi này, có khoảng chục người xứng đáng với sự kính phục của tập thể. Đó là những anh lớn tuổi, vào khoảng trên dưới 30, anh Phạm Hưng, tổ trưởng tổ tôi là người được toàn công trường ngưỡng mộ. Vốn là một Hạ sỹ quan Quân Vận, bị bắt làm tù binh vào năm 1972, được học tập cải tạo trên Trường Sơn, sau giải phóng anh được bố trí về tham gia Công trường Đường Sắt Quảng Nam – Đà Nẵng. Phạm Hưng người thấp đậm, vạm vỡ, giỏi võ, tính tình trầm lặng, chuẩn mực và tốt bụng, hay giúp đỡ mọi người. Anh không bao giờ tham gia vào những trò nhố nhăng cá độ, chỉ đơn giản “Giữa đường thấy việc bất bằng mà tha”. Khi gặp những cuộc độ có tảng đá quá lớn, thể tích hơn nửa mét khối, mặt tiếp xúc oái ăm, không có điểm để đập búa, thường thì đó là những tảng đá to tròn bị bỏ lại vì không mấy ai có thể đập nổi. Trong khoảng 15 phút giải lao giữa buổi làm việc, những tay thầu độ treo giá rất cao để lôi kéo những thằng tay mơ hám ăn vào tròng, việc thua độ đã sờ sờ trước mặt. Lúc ấy anh Phạm Hưng lặng lẽ vác chiếc búa 10kg của mình bước đến giải quyết giúp vụ việc, chỉ trong vòng 10 nhát búa hoặc 10 phút quy định tùy theo thỏa thuận của hai bên. Anh nhẹ nhàng điều khiển tay búa điệu nghệ. Cả công trường nín thở, không khí ngột ngạt bao trùm. Bục! bục! bục… cạch! cạch…! tảng đá kiêu kỳ thúc thủ vỡ toác ra sau một tiếng nổ khô gọn. Cả một khoảng bãi tưng bừng tiếng hò reo vang dội, người ta nhào tới bắt tay, cảm ơn rồi công kênh anh như một anh hùng. Cũng điềm đạm và lặng lẽ như vốn tính trời, Phạm Hưng khiêm tốn từ chối niềm “vinh quang bánh kẹo” trở về vị trí của mình, rời xa nơi vừa là một cuộc đấu trí lực đầy căng thẳng. Những lúc vắng im, anh em ngồi với nhau, anh Hưng chỉ vẻ cho những ngón nghề độc đáo. Sở dĩ anh không bao giờ chịu chào thua những tảng đá đầy thách đố ấy, là vì anh biết cách vận công, điều khí, thở sâu, tập trung khí vào huyệt đan điền dưới bụng, đôi tay cầm búa uyển chuyển, khi lơi khi chặt nhất nhất tuân thủ từng giây phút vận hành cơ năng để ra đòn. Anh bảo: “Như người võ sỹ xử dụng binh khí, phải biết hợp nhất giữa con người và binh khí vào lúc quyết định để tăng công lực, người ta thường bảo nhân kiếm hợp bích là vậy…” Quả thật, từ bài học được anh chỉ giáo, tôi tuy nhỏ con gọn người nhưng sau này cũng đã trở thành một công nhân đập đá không có đối thủ ở những đơn vị mới, tôi chưa từng chịu thua bất cứ một tảng đá to tròn nào khi đã quyết định ra tay với nó. Bây giờ bạn bè cà phê cà pháo bù khú cả ngày cả buổi với nhau là chuyện không vấn đề, chớ thời ấy đối với chúng tôi “Cà phê” không có trong từ điển của mỗi thằng con trai đôi mươi phơi phới. Ăn! Đúng. Chỉ béo và ngọt mới là mối quan tâm “đầu hàng” đòi hỏi luôn ở trong nhớ nghĩ. Chả bao giờ nghe đứa nào rủ nhau ra An Tân để uống cà phê cà pháo chi cả. Có mà điên! Mỗi tháng 4 chủ nhật thì mất 2 cái chủ nhật lao động xã hội chủ nghĩa rồi. Đó là tính những tháng làm việc bình thường chớ nếu vào chiến dịch thì “Thèng mô con mô núa chủ nhựt? Chỉ mẹt tau coi thử? Thứ tốm chớ!”. Hai chủ nhật được nghỉ chỉ quanh quẩn trong xí nghiệp, ai muốn ra thị trấn chơi phải xin phép và được sự đồng ý của Phân hội trưởng Thanh niên hoặc Tổ trưởng sản xuất. Mà ra chợ cũng chẳng để làm gì, đã vài lần ghé vào quán cà phê nhâm nhi trông sành điệu đấy nhưng cái ngon của thú thưởng thức cà phê nó quên mình mất rồi. Lang thang vài lần. Chán. Ở nhà chơi có khi hay hơn vì còn bạn bè đồng đội, tào lao xịt bợp hoặc giã hát hò với nhau cũng nghe khí thế. Ra thấy “người ta” ngẫm lại thân phận mình nó sao sao ấy! Cuối cùng rồi trời ta ta ngồi đất ta ta đứng, chẳng phải nghĩ ngợi nhiều. Rối! Cả 4 đội sản xuất “châu tuần” quanh xí nghiệp có đâu chừng sáu bảy cái “Amateur Quán”, không đủ nội lực để phục vụ cho một lượng khách quá sức đông đảo. Tuy vậy, hình thức “kinh doanh” này chỉ phát huy được vụ ký sổ. Tức là mua chịu nợ thoải mái đợi đến kỳ lương rồi tính! Còn “nhu cầu thoải mái” đúng nghĩa để tận hưởng cái thú “tiêu tiền” thì lại hiềm rằng “xa xỉ”, hầu như “viển vông”. Mỗi công nhân được bố trí một giường ngủ cá nhân, giữa hai giường là lối đi nhỏ. “Tư trang gia sản” tất cả cất giữ trong ba lô hoặc cái thùng gỗ vốn đựng thuốc nổ để đánh mìn, một dạng “rương hòm” rất hiếm quý, chỉ có bọn “đẹp người đẹp nết” hoặc giỏi làm thân với “trên” mới sở hữu được. Nó tiện dụng ở chỗ có thể khóa lại để bảo vệ được “tài sản” riêng tư. Tất tần tật đều phải xếp đặt gọn gàng trong không gian thuộc quyền “sổ đỏ” của mình, vì vậy mà việc “giao thương” cũng xem ra hơi bất tiện. Thỉnh thoảng để đổi gió và trốn đi hát nhạc “trước 75” cho nhau nghe, chúng tôi mò ra cái quán duy nhất của dân sở tại ngay đầu con đường độc đạo từ Quốc lộ I dẫn vào công trường. Từ nơi này đến khu tập thể chúng tôi cách một tầm hú gọi, đủ an toàn cho những riêng tư lén lút, tránh sự quản lý theo dõi của Ban chỉ huy và “tai mắt” dòm ngó đáng phải kiêng dè. Cả một vùng đồng không mông quạnh do ngày trước phải di dời trắng vì khu quân sự Phi trường Chu Lai của quân đội Mỹ. Sau giải phóng chẳng hiểu sao lại chỉ mỗi một ngôi nhà dân nằm hiu quạnh ở chốn này. Để vào quán, bạn phải đi qua một con đường nhỏ sát chuồng trâu quanh năm lầy lội vì phân chảy tràn ra ngoài. Cái thứ nhèm nhẹp nồng khai lưu cửu sền sệt xanh đen bỏ đi của trâu bò theo chân thực khách vào đến trong nhà. Đó là một thực thể gọi là “Nhà” được vá víu bằng đủ thứ vật dụng và “vất liệu”. Cả không gian ẩm mốc vì u tối, nóng hầm hập, mái nhà sùm sụp trên đầu vì quá thấp. Chen chúc trong cái gọi là nhà ấy là một gia đình hơi kỳ dị, người chồng đầu luôn cạo trọc, nước da gầy xanh khó đoán tuổi, ước chừng khoảng giữa của ba hay bốn chục gì đấy. Lúc nào cũng thấy anh luôn khom cúi người có lẽ do phản xạ tự nhiên, tay chân lóng ngóng vụng về. Chẳng mấy khi nghe anh trò chuyện ngoài vài tiếng ừ hử lấy lệ lúc khách hỏi thăm một điều gì đó. Sự “Khai sinh” và “Thương hiệu” của cái quán này đúng là sáng tạo nghệ thuật của một đầu óc phong phú tưởng tượng, xứng đáng xếp vào hạng “Thiên tài”. “Quán Hai Nhớp”. Chẳng ai biết được người chủ nhà tên gì, để cho phải phép, chúng tôi gọi là “Anh Hai” vì anh lớn tuổi hơn đám lau nhau chúng tôi rất nhiều. Sau ai đó phong thêm cho cái tên đặc hiệu nói trên vì sự tinh túy của cung cách làm ăn và chất lượng hàng hóa mà anh đang kinh doanh phục vụ. Hai Nhớp vô tư đón nhận danh hiệu cao quý từ trên trời rơi xuống chẳng chút tự ái giận hờn hay tỏ vẻ khó chịu, Anh thuận lòng sự đặt để ấy như rằng nó đúng chính là của anh, chỉ anh chứ không phải bất kỳ một ai khác được phép xâm phạm bản quyền. Bên cạnh Hai Nhớp là cái bóng của bà chủ nhà cỡ ngoài 30 có vẻ bệnh hoạn, nước da vàng vọt, khuôn mặt bủng beo mà đầy chịu đựng, cứ loay hoay trong bếp. Có bốn đứa trẻ vừa trai vừa gái mũi dãi lều phều và cóc ké sài đẹn treo trên người những tấm vải nhàu cũ cáu bẩn trước đó được gọi là quần áo, phất phới chạy nhảy lung tung trong cảnh giới ấy cho thấy còn chút sinh khí của sự hoạt động. Quán bán những món hàng vặt vãnh quen thuộc, mấy gói kẹo đậu phụng, một lọ thủy tinh đầy vết dấu tay đựng kẹo ú, xâu bánh chưn treo tòong teng bên cửa sổ, chồng bánh tráng đựng trong bao nilon vàng đục. Dưới nền nhà nhớp nháp dựng vài chai nước ngọt hình như đã quá hạn sử dụng vì nắp ken rét rỉ. Trong tủ lưới bé nhỏ vẹo vọ móc hờ một ổ khóa chắc để “phòng người ngay” chỏng chơ mấy gói thuốc lá rẻ tiền, chồng thuốc rê đen được cắt miếng vuông vắn. Sát góc tủ là cái can nhựa cũ kỹ đựng rượu Quảng Ngãi. Thứ rượu được cho rất nặng đô và khó nuốt vì bị pha chế thêm nước lạnh cộng với lung tung các thứ độc hại để kiếm được nhiều tiền lời. Điều đặc biệt lôi kéo khách hàng ở cái quán này là bánh đúc. Vợ Hai Nhớp loay hoay dưới bếp để làm bánh trong mấy cái rỗ tre, mẹt tre và kể cả mấy cái bịt mõm bò lót lá chuối. Bánh làm bằng gạo đỏ, hấp trong cái thùng tole móp méo dưới căn bếp lộn xộn thau chậu soong nồi và bù hóng mạng nhện. Khi có khách vào ăn, bánh được cắt ra thành từng miếng xinh xắn tùy theo giá tiền bởi một con dao bạ đâu vất đấy, Hai Nhớp ngó dáo dác tìm lấy dao rồi quẹt đại vào bất kể thứ gì trong tầm tay, coi như chùi cho sạch trước khi cắt. Đôi tay bẩn thỉu bốc mấy lát bánh bỏ vào một cái dĩa nứt rạn rồi đặt lên bàn trước mặt những “thượng đế” lúc nào cũng sẵn đói thèm, Hai Nhớp múc mắm cái trong một thẩu nhựa vo ve ruồi nhặng đổ vào một cái chén đất, hai ba người cùng chấm chung chén mắm ấy, nếu có ai kỹ tính lắm thì đem thêm chén lên để khách ăn riêng. Kinh khủng nhất là những chén mắm cái còn sót lại khi khách ăn xong, tất cả đều được Hai Nhớp dùng chiếc đũa tre mốc xì vớt lọc bỏ những vụn bánh nằm lẫn trong mắm rồi vét sạch vào cái thẩu đựng để ở trên bàn, đợi múc ra bán tiếp cho những “Thực khách” quý hóa đến sau. Lối “quay vòng mắm cái đã qua sử dụng” ấy diễn ra công khai trước mắt mọi người, mặc cho rất nhiều phản ứng, phê phán kể cả to tiếng, Hai Nhớp chẳng chày cối phân bua làm gì cho phiền, cứ lẵng lặng làm cái việc mà mình dứt khoát là đúng với lý lẽ rất căn cơ: “Cả nhà tui cũng eng chung thẩu mắm đó rứa mà, méc mớ chi mô…”. Đúng chẳng “méc mớ chi mô” thật. Bằng cớ là dẫu có biết rằng mình đang ăn vào bụng loại bánh đúc chấm mắm cái mất vệ sinh nhất trong lịch sử hàng quán, ở cái quán mất vệ sinh nhất thế giới ăn hàng bỏ chợ, nhưng còn làm bộ làm tịch với ai đây giữa nước non này, khi cái sự thèm lạt lên ngôi, không cưỡng lại nổi với nó, không thể chống lại sức quyến rũ chết người của miếng ăn. Nên nói chi thì nói, mất vệ sinh cũng được, bẩn thỉu cũng được. Đã chết ngay tại chỗ thằng nào con nào trong quán Hai Nhớp đâu mà phải dè chừng. Chúng tôi cứ an nhiên tự tại mà ăn, mà ghi sổ để đời, mà: “Thôi! Ra quán Hai Nhớp ăn bánh đúc hè!” Rứa là đi, rứa là xăng xái đến với thế giới riêng tư tự do thoái mái nhất dưới gầm trời này của chúng tôi để ăn, để chuyện trò đã đời và hát những bài hát cũng thèm thuồng không kém hành hạ kêu đòi. Để được còn thấy mình nguyên vẹn một niềm lạc thú yêu sống đúng nghĩa, dầu rằng cái nghĩa lý ấy đã bị giảm giá ít nhiều trước một dời đổi không do một ai trong chúng tôi được quyền định đoạt, kể cả số phận của chính mình. “Quán Hai Nhớp của chúng tôi” đình đám suốt một thời gian dài. Thương hiệu được bảo chứng không chỉ riêng cho khu vực công nhân mà còn danh giá tiếng tăm ra tới ngoài thị trấn An Tân phố chợ. Nó thỏa mãn xoa dịu những cơn khát thèm vô tội vạ của tuổi trẻ Mỏ đá Chu Lai những năm sau 1975 nhiều gian khó. Cả đất nước vừa thoát ra khỏi cuộc chiến hai thế kỷ ròng rã tên bay đạn lạc. Sự đói nghèo hiện hữu trên từng khuôn mặt người, trên từng ngóc ngách của đời sống. Phải gắng sức lên thôi. Ai cũng tự dặn lòng an ủi vậy. Thôi! Đã được hưởng cảnh đất nước yên bình, còn mong gì hơn nữa? Những người còn sống hôm nay là những hạt gạo trên sàng quý giá và phúc phận. Chút túng khó bước đầu là tất yếu của quy luật phát triển, rồi ra mọi sự sẽ tốt đẹp hơn. Bên cạnh hậu họa của tang thương mất mát là những đổ vỡ cần phải hàn gắn. Từng con người đứng trước những thách thức vượt quá sự chịu đựng mà chỉ có mỗi một lựa chọn hay nói cách khác là đã được cuộc sống lựa chọn giúp rồi, ta chỉ vậy mà an tâm đi tới trên con đường đã được hoạch định. Nuôi dưỡng niềm tin trong sáng ấy, chúng tôi đã cười đùa và ca hát, đã lăn lưng phơi mặt tưới từng giọt mồ hôi ấm nóng tình đời để được sống và làm việc, một công việc quá nhiều ý nghĩa cao quý và một cuộc sống ước mơ ở thì tương lai chờ đón. Nhờ vào tâm thế ấy và cũng mang tâm thế ấy chúng tôi bay trên đôi cánh tuổi trẻ mang nhiều dự phóng vào ngày mai sáng lạn. Cái “Ngày mai” đẹp đẽ huy hoàng cứ mải mốt chạy về phía xa xăm chẳng đếm xỉa gì đến những kẻ đeo đuổi theo nó trên một hành trình vô hạn định. Tuy vậy, nơi cái xó trời đất hoang vu này chỉ giàu có mỗi nắng mưa và gió, những ngọn gió từ biển thao thiết réo gào từng khi biển động, đem cái lạnh thấu xương ban tặng hào phóng cho từng tấm hình hài trai trẻ, làm bừng thức cơn đói thèm đêm đêm không ngủ, đêm đêm lại rủ rê về những giấc mơ ngon, tiếng chép miệng giòn vang trong khuya vắng từ giường ngủ đồng đội cứ nhắc nhở gọi mời, trêu đùa vào bụng dạ sôi réo làm đầy lên những nỗi niềm buồn tủi. Lâu lâu, đói, thèm mà vô phương giải quyết vì đêm đã chìm vào tĩnh lặng. Tôi thầm thĩ ngâm mấy câu thơ tình cho đỡ nhớ cái ăn. Thằng Chỉnh càu nhàu trở mình, thằng Trọng lé mất ngủ đổ quáu: - “Bớ xồm bớ lốp! Eng không có eng còn bày đẹt yêu! Kẹt họ!” Tam Kỳ - khuya cuối đông Nguyễn Đức Dũng







     Câu thơ tình của ai đó mà tôi đọc được từ trang tạp chí cũ hồi còn ở Mỏ đá Hòn Giang vào mùa đông năm 1975. Song chuyện dưới đây lại là thứ “nhu cầu” khác, bức thiết hơn, hồng hoang hơn của những đòi hỏi con người. Dân Miền Trung chúng tôi gọi là “Thèm”. Thèm ăn thèm uống, là đói cơm lạt muối. Đó là loại nhu cầu mang tính vật chất, đáp ứng những tiêu chuẩn cần thiết cho điều kiện sống của một con người, nó mang nỗi niềm của da thịt, nó hàm súc triết lý của dạ dày, nó thúc hối dằn vặt và xéo dày ruột gan, nó đủ quyền phép làm cho con người có thể rơi vào cảnh huống tồi bại và hèn kém. Tục ngữ có câu “Khi đói đầu gối phải bò…”. Thèm muốn là một cảm giác cám dỗ đầy cạm bẫy, có thể đẩy con người vào bi kịch khi không đủ bản lĩnh để kìm nén cơn kêu đòi dung tục. Ăn uống, ngủ nghỉ và yêu đương xác thịt là nỗi thèm khát bị nguyền rủa truyền đời, đeo đuổi rình rập những khi ta yếu mềm lòng dũng khí. Hoàn toàn khác với nhu cầu tinh thần đẹp đẽ mà câu thơ hướng tới.

     Kết cấu địa chất khoáng vật của núi đá Chu Lai cũng lạ. Cả một mạch núi nhưng không như ở mỏ Phước Tường – Đá kết tầng. Dạng vật chất kết cấu theo lớp lang, tầng bậc, rất dễ khai thác. Đá Chu Lai là một khối hoa cương cấp I khổng lồ. Siêu cứng, lấp lánh những phần tử hạt dưới nắng trời như ánh kim cương, như những vì sao nhấp nháy lung linh trong đêm tối. Ta cứ hình dung cả dãy núi mênh mang kia là một thực thể đá mồ côi được sinh ra trong quá trình vận động hình thành lớp vỏ trái đất. Nó tạo nên một mạch núi đá liên hoàn và liền khối. Thời trước, tập đoàn RMK của Mỹ đã tổ chức khai thác. Đây là mỏ lộ thiên có trữ lượng tương đối lớn, kế hoạch khai thác hàng trăm năm, tính từ thời thực dân Pháp sang ta. Sử dụng cho xây dựng cơ sở hạ tầng, mở mang đường sá, cầu cống…
      Sản xuất đá thủ công hoàn toàn bằng sức vai u thịt bắp của tuổi trẻ cộng với nhiệt huyết tin yêu cuộc sống mới. Chúng tôi ào ào xông pha vào khó khăn gian khổ của công việc lao động khổ sai mà hân hoan như một dạo chơi, thụ hưởng những giá trị cao đẹp của cuộc đời. Một ý niệm vinh quang đặt bày tô vẻ quàng vào nghĩ suy của lớp tâm hồn mới. Phơi phới lý tưởng. Khao khát sớm trở thành những công dân hữu dụng. Đóng góp nhiều nhất công sức tâm lực hòng xây dựng quê hương giàu đẹp, đất nước phồn vinh và cuộc sống thiên đường có thật dưới ánh mặt trời.
     Trong môi trường ấy, sức người đổ ra mỗi ngày mỗi giờ giữa công trường không thể cân đong đo đếm nổi. Chỉ phản xạ sinh lý thường trực cho phép con người nhận thức được rằng mình đang tồn tại và chiến đấu. “Chiến đấu” chứ không phải “làm việc”. Ta phải luôn dung dưỡng trong tâm trí mình sức đề kháng mãnh liệt nhất có thể để chống chọi lại với cái đòi hỏi bản năng trần tục từng giờ từng phút. Sự thèm thuồng. Nhu cầu muốn được ăn uống. Muốn thỏa mãn cơn co thắt của gan ruột và phản ứng bài tiết dịch vị của vòm miệng. Sự thèm ăn ám ảnh cả vào trong giấc ngủ. Ban ngày đổ tống tháo sức lực ra với xà beng búa tạ, với gióng gánh cuốc xẻng, vậy mà đêm đêm, lứa trẻ trai mười tám đôi mươi chúng tôi gặp toàn những giấc mơ ngon. Tuổi đương độ phát tiết anh hoa chung sống vui đùa bên những cô gái xinh tươi ngon giòn con mắt mà hiếm hoi những mộng mị đẹp. Năm thì mười họa mới có được bữa liên hoan bồi dưỡng khi sơ kết quý hoặc sáu tháng kế hoạch. Lúc đó mới nghe được vài thậm thụt nhỏ to ngoài bãi đá vào giờ giải lao: “Hồi hôm tau bắn máy bay…!” Môt khoái cảm điều tiết tự nhiên rất người mà mất hút giữa giai đoạn sung mãn nhất. Nó như thứ van xả tự động của một nồi hơi khi bị nén quá đầy. Than ơi! Chúng tôi những năm tháng đẹp đẽ nhất của một đời người vậy mà mấy khi được lèn nén để mong bật xả…

     Để giải tỏa nỗi thèm thuồng bu bám luôn dày vò. Những câu chuyện kể về món ăn ngon, những bữa ăn no đầy đã chìm khuất từ hồi tu huýt tu lai nào đó lại được đào xới lên, dọn ra bày biện chi li lại cho nhau thụ hưởng. Hâm nóng ký ức ngon miệng ấy mà cảm nhận dịch vị đang lén lút đẫm ướt vòm họng. Sợ bè bạn trêu cười, thỉnh thoảng có đứa lại tìm cớ quay mặt về hướng khác, như thể đang làm một việc gì đó bất chợt nghĩ ra. Nhưng tất cả chúng tôi đều biết tỏng rằng bạn mình vừa giấu đi một lần nuốt nước miếng.
     Quy luật cung cầu lại tìm cách nảy nòi. Mỗi đội sản xuất vài trăm công nhân lao động. Với đồng lương chỉ mang tính ví dụ vậy mà rồi cũng có người biết chắc bóp để xoay xở sinh lợi. Ban đầu chùng lén thăm dò, sau không thấy cấp trên có ý phê phán gì nên mạnh dạn công khai. “Bung ra” làm ăn bài bản hẳn hoi. Những tay “Cơ hội” lanh lẹ ấy tranh thủ từng thời gian nghỉ hiếm hoi liên hệ ngoài chợ thị trấn An Tân lấy hàng về bán lại cho anh em trong đơn vị. Chủng loại không lấy gì làm phong phú vì chưa “trường vốn”. Song chỉ vài mặt hàng “nóng” thôi mà đã giải quyết được biết bao nhiêu cái miệng háu ăn giữa thời buổi khủng hoảng dinh dưỡng trầm trọng ấy. Ngoài hai mặt hàng chủ lực chạy nhất là bánh chưng nhưn thịt heo mỡ và kẹo đậu phụng. Những “Đầu nậu” này còn “kinh doanh” thêm đường bát, thuốc lá và vài loại nước ngọt có ga. Một loại hàng hóa nữa cũng đã được dấm dúi tuồn vào nhưng phải bán chui và chỉ dành riêng cho “khách ruột”. Nghĩa là dạng bạn hàng cực kỳ “uy tín”. Uống rượu mà không để cho người khác phát hiện ra mình vừa lai rai vài ly ba xi đế. Có cho thêm vàng cũng đố đứa nào dám ăn gan hùm mật gấu mà để người ta thấy mình say rượu! Sợ kỷ luật. Từ khi xuất hiện mấy cái “Quán” tài tử này thì hầu như đám trai trẻ chúng tôi không còn biết đến tiền là gì nữa. Tới tháng nhận lương, chủ quán “bắt tay” với tài vụ xử lý nhanh gọn khoản “thu nhập gọi là” sau cả một tháng trời trần lưng ngoài bãi đá mặc cho mưa nắng đỏng đảnh thất thường. Từng đoàn công nhân xếp hàng dài chờ vào văn phòng Ban chỉ huy để ngoáy một phát vào cái ô hình chữ nhật bé tẹo trong sổ lương đơn vị là xong! Mọi thừa thiếu được “lũy kế” vào cuốn sổ nợ đời trong tay chủ quán. Thường thì thiếu lại chút ít. May mắn lắm mới gần trùng khít với khoản lương được nhận. Lâu lâu, đứa nào được giải quyết cho phép về thăm nhà thì cả nhóm bạn chơi thân với nhau phải quyết tâm cao độ, ăn nhín nhịn thèm, tránh trớ hàng quán như tránh bệnh dịch, dứt khoát hạn chế ghi sổ  dành lại chút ít chung vào để bạn có đủ tiền tàu xe và “quà bánh đại khái” cho một chuyến thăm nhà. Cứ thế mà xoay vòng, cho nên cả năm trời mới có dịp về thăm cha mẹ anh em ruột thịt đôi ba bữa. Cũng do vậy mà truyền miệng câu nói vui: “Tăng xin giảm mua  hút tuyệt đối để đi đến giai đoạn xin toàn diện”. Một cách phê phán nhẹ nhàng những ai ky bo chuyên chôm chĩa lợi dụng sự hào phóng của người khác, mà cũng vừa tự chế nhạo, dặn dò mình bớt tiêu pha vung phí.
     Có vài tay “khôn lõi” không thèm “mở quán”. Phần sợ khó thu hồi vốn  phần nhát gan không dám kinh doanh, thương trường là chiến trường kia mà, người xưa đã từng dạy rồi, lơ tơ mơ chỉ có nước “sạt nghiệp”. Đó là những tay có sẵn máu đỏ đen di truyền. Cờ bạc thì dứt khoát chẳng ai dám nghĩ tới rồi, song mưu ma chước quỷ ở đầu óc của hậu duệ Đổ Bác lại sáng tạo ra được vài hình thức mới. Ăn thua rất cay cú nhưng khó có thể quy trách nhiệm để xử lý kỷ luật. Đó là các kiểu cá độ. Ban đầu cũng do mấy thằng “hẻo” quá khơi mào. Những đứa ăn nhiều, ăn không biết no. Nhỏ người mà lớn bụng. Lại hay đau ốm vặt, sức khỏe kém nên lương thấp. Cảm giác đói thèm vô phương chữa trị. Mấy tên này đương nhiên được xếp loại “Tín nhiệm thấp” chót bảng. Không được chủ quán để mắt tới chào đón như những “thượng đế” khác. Thường xuyên chầu rìa góp chuyện vặt quanh những bữa ăn bồi dưỡng của đồng đội. Mắt hau háu nhìn vào từng miếng cắn miếng nhai của mọi người mà nói tầm phào, chẳng đâu vào đâu, cốt để lấy cớ nhìn người ta ăn cho đỡ thèm. Nhân nói vu vơ ấy mà nuốt nước miếng. Thông điệp thường xuyên như một thứ phép màu của mấy tay này là chuyên thách độ:
-         “Ơ! Tau có thể ăn gọn một cặp đường đen…”
-         “Tau có thể xơi tái 5 phong lương khô 701…”
-         “Tau có thể giải phóng 5 cặp bánh chưng..”
-         “Ơ! Tau có thể … một gói kẹo đậu.v.v. và v.v…” Đứa mô dám độ không?
     “Nhỏ người to con mắt” là kiểu ví von của ông bà mình ngày xưa nhằm chê trách những kẻ háu ăn. “Vào độ” thua sặc máu nhưng còn biết cách nào? Ký sổ không được! Vay mượn không xong mà cái sự thèm kia nó bất kể chi nhướng, không biết tự lượng thân phận bọt bèo. Mà không biết cái thứ nước miếng khốn khổ đó ở đâu ra mà nhiều đến thế, cứ đầy ứ miệng mồm làm tình làm tội. Đành mặt dày mày dạn cố đấm ăn xôi, rồi ra kệ thây hậu họa, cùng lắm thì chịu trận cho chủ quán nó chửi bới chán chê rồi cũng qua một quận. Vậy là độ. Lúc đầu thì độ ăn bánh chưng, vừa no vừa béo, thanh toán cơn thèm lưu cửu hành hạ đêm ngày. Mức khởi điểm như người ta tổ chức đấu thầu là 5 cặp bánh chưng. Đa số chào thua khi lột vỏ cái bánh thứ năm, nghĩa là chưa giải quyết trọn vẹn 3 cặp bánh, thế là thua độ, phải chịu trả tiền mức phạt gấp đôi số thách độ ban đầu, cũng có nghĩa là phải chịu ghi nợ chủ quán 10 cặp bánh chưng để dành cho mấy tay “Thầu độ” ăn dần không mất tiền. Tôi là một trong số không nhiều những tên thua độ ở cặp bánh thứ tư. Trợn mắt nín thở để giữ cho khỏi mửa trào ra ngoài phần mình vừa ngốn qua cửa miệng. Cầm cái bánh thứ bảy lột vỏ mà nước mắt lưng tròng. Trước mắt mình không còn là cái bánh chưng đầy cám dỗ vẫn hằng mơ ước mà là một hình khối chữ nhật bằng nếp nấu nhuyễn có các số đo thể tích 8cm x 8cm x 4cm đầy trêu cợt và mai mỉa. Giới hạn thời gian quy định nghiệt ngã của trận đấu đã gần hết hạn. Thế là thua, là chung độ trong sự nhục nhã ê chề vì miếng ăn đầy tủi hổ.
     Mức thách 5 cặp bánh chưng dừng lại khá lâu, biết bao nhiêu hảo hán đành cúi đầu khuất phục. Những tay thầu độ vênh váo cậy tiền khinh người ra mặt. Vậy mà một chiều, khi công nhân đang tắm rửa sau buổi làm mệt mỏi ở những cái giếng nước tự đào quanh xí nghiệp, bỗng dậy lên tiếng hò reo vang động một góc trời. Té ra bên đội 2 đã xuất hiện anh hùng cái thế. Chàng ta dõng dạc tuyên bố sẽ giải phóng gọn 10 cặp bánh chưng sau thời gian dài náu mình im tiếng. Trời đất ơi! Vậy mà anh ta đã thắng. Một chiến thắng vinh quang vỗ mặt mấy tay thầu độ cậy thế hiếp người. Hay tin, cả rừng người tụ tập trước sân xí nghiệp, ai nấy đều nghe hả lòng hả dạ, tung hô khen ngợi không tiếc lời, kẻ đã rửa được mối hận thèm ăn thua độ của mấy trăm con người ôm nỗi hờn căm nuốt cay đắng vào lòng, vừa mất tiền vừa chịu tiếng đời thị phi báng bổ bấy nay. Thói thường ai cũng khó ưa những tay thầu độ, như tâm lý ghét người giàu có hợm hĩnh của kẻ nghèo hèn. Song ông trời lại quen thói phù thịnh chớ chẳng phù suy, nên chi ngậm ngùi kia của lực lượng thèm ăn kìm nén lâu ngày nay được dịp bùng vỡ, một hạnh phúc lạ lùng xoa dịu niềm thống khổ trầm luân đè nặng biết bao đầu xanh tuổi trẻ. Chàng trai lâu nay vốn vô danh tiểu tốt, không một chút tài vặt thời thượng như mọi người, chìm khuất vào đám đông câm lặng, bỗng chốc đổi đời. Sự nổi tiếng đã đem lại niềm vui lớn cho không chỉ riêng anh, anh trở thành bạn bè thân thiết của cả xí nghiệp. Sau kỷ lục bánh chưng, kỷ lục kẹo đậu phụng, kỷ lục lương khô cũng lần lượt xuất hiện và thi thoảng bị phá vỡ. Nhưng có một kỷ lục lạ đời chắc chắn rằng chỉ Việt Nam mình mới có. Đó là kỷ lục đập đá tảng bằng búa tạ…

       Để phong phú thêm hình thức thi đấu nhằm tăng phần thú vị hấp dẫn trong các cuộc tranh tài. Giới thầu độ nghĩ ra được nhiều cách gầy độ và “gài độ” hiểm hóc, làm điêu đứng dân chơi thèm ăn cay đắng, những trận thua xiểng liểng tức mửa mật. Kỳ lạ ở chỗ là bầy thiêu thân vẫn không hề biết sợ, danh sách “tử trận” cứ nối dài theo những trận cười nói hò reo vang động công trường. Những bàn bạc trao đổi phương cách thi đấu được truyền tai nhau. Cũng bày ra chiến thuật chiến lược đấu sách hẳn hoi mang tính “có nghề” phù hợp cho từng trận giao tranh nảy lửa. Kinh nghiệm về cách ăn như thế nào để giảm no, giảm ớn được đề ra. Làm thế nào để chống lại cơn co thắt nôn mửa khi thức ăn đã tràn lên cổ? Tắm trước hay tắm sau khi thi đấu v.v. và v. v…Cũng đã gặt hái được kết quả hữu hiệu. Nhưng sự ranh ma quỷ quyệt của đối phương cũng chẳng hề thua kém. Những ràng buộc về thể thức thể lệ thi đấu được bổ sung liên tục để phù hợp với tình hình “chiến sự” diễn ra ngày càng éo le và khốc liệt. Để cổ súy phong trào, tập thể đã phân hóa hình thành rõ rệt lực lượng giữa hai giới tuyến. Giới thầu độ và đám chủ quán ăn theo tuy ít ỏi thành viên nhưng lại nắm quyền sinh sát trận địa. Ngược lại, nguồn cổ vũ lớn lao và niềm cảm mến sẻ chia “chiến hữu bị loại khỏi vòng chiến đấu” đã hâm nóng gắn kết tình đồng đội của đông đảo phe bại trận. Danh sách các loại hình thách độ quái chiêu đã xuất hiện thêm những kiểu độ nực cười. Độ đục lỗ bắn mìn xem cặp thợ nào đục nhanh hơn, năng suất hơn. Độ đập đá 4x6 bằng búa con 1kg sau thời gian quy định xem ai có khối lượng sản phẩm cao hơn. Độ đọc thơ, ca dao bắt vần. Siêu nhất là vụ độ răng, giả hay thật, quả này đã làm điêu linh biết bao nhiêu tay hiếu kỳ phải ôm hận ngậm bồ hòn làm ngọt. Cho đến tận bây giờ dầu sự việc xảy ra đã gần 40 năm rồi, mà nghi án vẫn còn treo lơ lững. Chẳng biết cuối cùng rồi hàm răng đẹp đẽ, đều tăm tắp và trắng ngà ấy của anh Dũng là răng thật hay răng giả…?

     Trong kỹ thuật khai thác đá thủ công, người ta cho phép sử dụng một lượng thuốc nổ phù hợp để dùng vào những trường hợp gặp tảng đá nhỏ, không đủ điều kiện để đục lỗ bắn mìn. Định lượng thuốc nổ tuy vừa phải nhưng cũng không đạt chỉ tiêu tiêu hao vật liệu nổ quy định. Đó là phương pháp đánh mìn “Ốp”, tức kẹp khối thuốc nổ vào một điểm phù hợp, nổ tác động để làm nứt vỡ tảng đá ra cho công nhân dùng búa tạ tiếp tục đập thành đá hộc 25x30. Từ khi có “chiêu” độ đập đá tảng, rất nhiều tay nghề đã được nâng lên, người ta tìm kiếm biện pháp tối ưu nhất để thực hiện những ràng buộc hết sức hóc hiểm của cuộc đua tài. Ngoài giá trị vật chất là bánh chưng, lương khô, kẹo đậu v.v… thì tính tự ái của người thợ khai thác đá trước anh em đồng đội cũng đã bị thách thức. Thua độ không chỉ đơn giản là thua phần bánh quà đã giao kèo, mà còn có nghĩa chứng tỏ mình tay nghề kém cỏi trước bàn dân thiên hạ, những đồng đội đồng nghiệp luôn chung cùng mưa nắng vui buồn, danh dự nghề nghiệp bị tổn thương, ai mà chịu cho được. Vì vậy, những cuộc độ đập đá tảng luôn thu hút đông đảo khán giả, tất cả đến để xem cho vui và cũng đến để học hỏi kinh nghiệm của nghề nghiệp. Trong đông đảo tay chơi này, có khoảng chục người xứng đáng với sự kính phục của tập thể. Đó là những anh lớn tuổi, vào khoảng trên dưới 30, anh Phạm Hưng, tổ trưởng tổ tôi là người được toàn công trường ngưỡng mộ. Vốn là một Hạ sỹ quan Quân Vận, bị bắt làm tù binh vào năm 1972, được học tập cải tạo trên Trường Sơn, sau giải phóng anh được bố trí về tham gia Công trường Đường Sắt Quảng Nam – Đà Nẵng. Phạm Hưng người thấp đậm, vạm vỡ, giỏi võ, tính tình trầm lặng, chuẩn mực và tốt bụng, hay giúp đỡ mọi người. Anh không bao giờ tham gia vào những trò nhố nhăng cá độ, chỉ đơn giản “Giữa đường thấy việc bất bằng mà tha”. Khi gặp những cuộc độ có tảng đá quá lớn, thể tích hơn nửa mét khối, mặt tiếp xúc oái ăm, không có điểm để đập búa, thường thì đó là những tảng đá to tròn bị bỏ lại vì không mấy ai có thể đập nổi. Trong khoảng 15 phút giải lao giữa buổi làm việc, những tay thầu độ treo giá rất cao để lôi kéo những thằng tay mơ hám ăn vào tròng, việc thua độ đã sờ sờ trước mặt. Lúc ấy anh Phạm Hưng lặng lẽ vác chiếc búa 10kg của mình bước đến giải quyết giúp vụ việc, chỉ trong vòng 10 nhát búa hoặc 10 phút quy định tùy theo thỏa thuận của hai bên. Anh nhẹ nhàng điều khiển tay búa điệu nghệ. Cả công trường nín thở, không khí ngột ngạt bao trùm. Bục! bục! bục… cạch! cạch…! tảng đá kiêu kỳ thúc thủ vỡ toác ra sau một tiếng nổ khô gọn. Cả một khoảng bãi tưng bừng tiếng hò reo vang dội, người ta nhào tới bắt tay, cảm ơn rồi công kênh anh như một anh hùng. Cũng điềm đạm và lặng lẽ như vốn tính trời, Phạm Hưng khiêm tốn từ chối niềm “vinh quang bánh kẹo” trở về vị trí của mình, rời xa nơi vừa là một cuộc đấu trí lực đầy căng thẳng. Những lúc vắng im, anh em ngồi với nhau, anh Hưng chỉ vẻ cho những ngón nghề độc đáo. Sở dĩ anh không bao giờ chịu chào thua những tảng đá đầy thách đố ấy, là vì anh biết cách vận công, điều khí, thở sâu, tập trung khí vào huyệt đan điền dưới bụng, đôi tay cầm búa uyển chuyển, khi lơi khi chặt nhất nhất tuân thủ từng giây phút vận hành cơ năng để ra đòn. Anh bảo: “Như người võ sỹ xử dụng binh khí, phải biết hợp nhất giữa con người và binh khí vào lúc quyết định để tăng công lực, người ta thường bảo nhân kiếm hợp bích là vậy…” Quả thật, từ bài học được anh chỉ giáo, tôi tuy nhỏ con gọn người nhưng sau này cũng đã trở thành một công nhân đập đá không có đối thủ ở những đơn vị mới, tôi chưa từng chịu thua bất cứ một tảng đá to tròn nào khi đã quyết định ra tay với nó.

     Bây giờ bạn bè cà phê cà pháo bù khú cả ngày cả buổi với nhau là chuyện không vấn đề, chớ thời ấy đối với chúng tôi “Cà phê” không có trong từ điển của mỗi thằng con trai đôi mươi phơi phới. Ăn! Đúng. Chỉ béo và ngọt mới là mối quan tâm “đầu hàng” đòi hỏi luôn ở trong nhớ nghĩ. Chả bao giờ nghe đứa nào rủ nhau ra An Tân để uống cà phê cà pháo chi cả. Có mà điên! Mỗi tháng 4 chủ nhật thì mất 2 cái chủ nhật lao động xã hội chủ nghĩa rồi. Đó là tính những tháng làm việc bình thường chớ nếu vào chiến dịch thì “Thèng mô con mô núa chủ nhựt? Chỉ mẹt tau coi thử? Thứ tốm chớ!”. Hai chủ nhật được nghỉ chỉ quanh quẩn trong xí nghiệp, ai muốn ra thị trấn chơi phải xin phép và được sự đồng ý của Phân hội trưởng Thanh niên hoặc Tổ trưởng sản xuất. Mà ra chợ cũng chẳng để làm gì, đã vài lần ghé vào quán cà phê nhâm nhi trông sành điệu đấy nhưng cái ngon của thú thưởng thức cà phê nó quên mình mất rồi. Lang thang vài lần. Chán. Ở nhà chơi có khi hay hơn vì còn bạn bè đồng đội, tào lao xịt bợp hoặc giã hát hò với nhau cũng nghe khí thế. Ra thấy “người ta” ngẫm lại thân phận mình nó sao sao ấy! Cuối cùng rồi trời ta ta ngồi đất ta ta đứng, chẳng phải nghĩ ngợi nhiều. Rối!

     Cả 4 đội sản xuất “châu tuần” quanh xí nghiệp có đâu chừng sáu bảy cái “Amateur Quán”, không đủ nội lực để phục vụ cho một lượng khách quá sức đông đảo. Tuy vậy, hình thức “kinh doanh” này chỉ phát huy được vụ ký sổ. Tức là mua chịu nợ thoải mái đợi đến kỳ lương rồi tính! Còn “nhu cầu thoải mái” đúng nghĩa để tận hưởng cái thú “tiêu tiền” thì lại hiềm rằng “xa xỉ”, hầu như “viển vông”. Mỗi công nhân được bố trí một giường ngủ cá nhân, giữa hai giường là lối đi nhỏ. “Tư trang gia sản” tất cả cất giữ trong ba lô hoặc cái thùng gỗ vốn đựng thuốc nổ để đánh mìn, một dạng “rương hòm” rất hiếm quý, chỉ có bọn “đẹp người đẹp nết” hoặc giỏi làm thân với “trên” mới sở hữu được. Nó tiện dụng ở chỗ có thể khóa lại để bảo vệ được “tài sản” riêng tư. Tất tần tật đều phải xếp đặt gọn gàng trong không gian thuộc quyền “sổ đỏ” của mình, vì vậy mà việc “giao thương” cũng xem ra hơi bất tiện. Thỉnh thoảng để đổi gió và trốn đi hát nhạc “trước 75” cho nhau nghe, chúng tôi mò ra cái quán duy nhất của dân sở tại ngay đầu con đường độc đạo từ Quốc lộ I dẫn vào công trường. Từ nơi này đến khu tập thể chúng tôi cách một tầm hú gọi, đủ an toàn cho những riêng tư lén lút, tránh sự quản lý theo dõi của Ban chỉ huy và “tai mắt” dòm ngó đáng phải kiêng dè. Cả một vùng đồng không mông quạnh do ngày trước phải di dời trắng vì khu quân sự Phi trường Chu Lai của quân đội Mỹ. Sau giải phóng chẳng hiểu sao lại chỉ mỗi một ngôi nhà dân nằm hiu quạnh ở chốn này. Để vào quán, bạn phải đi qua một con đường nhỏ sát chuồng trâu quanh năm lầy lội vì phân chảy tràn ra ngoài. Cái thứ nhèm nhẹp nồng khai lưu cửu sền sệt xanh đen bỏ đi của trâu bò theo chân thực khách vào đến trong nhà. Đó là một thực thể gọi là “Nhà” được vá víu bằng đủ thứ vật dụng và “vất liệu”. Cả không gian ẩm mốc vì u tối, nóng hầm hập, mái nhà sùm sụp trên đầu vì quá thấp. Chen chúc trong cái gọi là nhà ấy là một gia đình hơi kỳ dị, người chồng đầu luôn cạo trọc, nước da gầy xanh khó đoán tuổi, ước chừng khoảng giữa của ba hay bốn chục gì đấy. Lúc nào cũng thấy anh luôn khom cúi người có lẽ do phản xạ tự nhiên, tay chân lóng ngóng vụng về. Chẳng mấy khi nghe anh trò chuyện ngoài vài tiếng ừ hử lấy lệ lúc khách hỏi thăm một điều gì đó. Sự “Khai sinh” và “Thương hiệu” của cái quán này đúng là sáng tạo nghệ thuật của một đầu óc phong phú tưởng tượng, xứng đáng xếp vào hạng “Thiên tài”. “Quán Hai Nhớp”. Chẳng ai biết được người chủ nhà tên gì, để cho phải phép, chúng tôi gọi là “Anh Hai” vì anh lớn tuổi hơn đám lau nhau chúng tôi rất nhiều. Sau ai đó phong thêm cho cái tên đặc hiệu nói trên vì sự tinh túy của cung cách làm ăn và chất lượng hàng hóa mà anh đang kinh doanh phục vụ. Hai Nhớp vô tư đón nhận danh hiệu cao quý từ trên trời rơi xuống chẳng chút tự ái giận hờn hay tỏ vẻ khó chịu, Anh thuận lòng sự đặt để ấy như rằng nó đúng chính là của anh, chỉ anh chứ không phải bất kỳ một ai khác được phép xâm phạm bản quyền. Bên cạnh Hai Nhớp là cái bóng của bà chủ nhà cỡ ngoài 30 có vẻ bệnh hoạn, nước da vàng vọt, khuôn mặt bủng beo mà đầy chịu đựng, cứ loay hoay trong bếp. Có bốn đứa trẻ vừa trai vừa gái mũi dãi lều phều và cóc ké sài đẹn treo trên người những tấm vải nhàu cũ cáu bẩn trước đó được gọi là quần áo, phất phới chạy nhảy lung tung trong cảnh giới ấy cho thấy còn chút sinh khí của sự hoạt động. Quán bán những món hàng vặt vãnh quen thuộc, mấy gói kẹo đậu phụng, một lọ thủy tinh đầy vết dấu tay đựng kẹo ú, xâu bánh chưn treo tòong teng bên cửa sổ, chồng bánh tráng đựng trong bao nilon vàng đục. Dưới nền nhà nhớp nháp dựng vài chai nước ngọt hình như đã quá hạn sử dụng vì nắp ken rét rỉ. Trong tủ lưới bé nhỏ vẹo vọ móc hờ một ổ khóa chắc để “phòng người ngay” chỏng chơ mấy gói thuốc lá rẻ tiền, chồng thuốc rê đen được cắt miếng vuông vắn. Sát góc tủ là cái can nhựa cũ kỹ đựng rượu Quảng Ngãi. Thứ rượu được cho rất nặng đô và khó nuốt vì bị pha chế thêm nước lạnh cộng với lung tung các thứ độc hại để kiếm được nhiều tiền lời. Điều đặc biệt lôi kéo khách hàng ở cái quán này là bánh đúc. Vợ Hai Nhớp loay hoay dưới bếp để làm bánh trong mấy cái rỗ tre, mẹt tre và kể cả mấy cái bịt mõm bò lót lá chuối. Bánh làm bằng gạo đỏ, hấp trong cái thùng tole móp méo dưới căn bếp lộn xộn thau chậu soong nồi và bù hóng mạng nhện. Khi có khách vào ăn, bánh được cắt ra thành từng miếng xinh xắn tùy theo giá tiền bởi một con dao bạ đâu vất đấy, Hai Nhớp ngó dáo dác tìm lấy dao rồi quẹt đại vào bất kể thứ gì trong tầm tay, coi như chùi cho sạch trước khi cắt. Đôi tay bẩn thỉu bốc mấy lát bánh bỏ vào một cái dĩa nứt rạn rồi đặt lên bàn trước mặt những “thượng đế” lúc nào cũng sẵn đói thèm, Hai Nhớp múc mắm cái trong một thẩu nhựa vo ve ruồi nhặng đổ vào một cái chén đất, hai ba người cùng chấm chung chén mắm ấy, nếu có ai kỹ tính lắm thì đem thêm chén lên để khách ăn riêng. Kinh khủng nhất là những chén mắm cái còn sót lại khi khách ăn xong, tất cả đều được Hai Nhớp dùng chiếc đũa tre mốc xì vớt lọc bỏ những vụn bánh nằm lẫn trong mắm rồi vét sạch vào cái thẩu đựng để ở trên bàn, đợi múc ra bán tiếp cho những “Thực khách” quý hóa đến sau. Lối “quay vòng mắm cái đã qua sử dụng” ấy diễn ra công khai trước mắt mọi người, mặc cho rất nhiều phản ứng, phê phán kể cả to tiếng, Hai Nhớp chẳng chày cối phân bua làm gì cho phiền, cứ lẵng lặng làm cái việc mà mình dứt khoát là đúng với lý lẽ rất căn cơ: “Cả nhà tui cũng eng chung thẩu mắm đó rứa mà, méc mớ chi mô…”. Đúng chẳng “méc mớ chi mô” thật. Bằng cớ là dẫu có biết rằng mình đang ăn vào bụng loại bánh đúc chấm mắm cái mất vệ sinh nhất trong lịch sử hàng quán, ở cái quán mất vệ sinh nhất thế giới ăn hàng bỏ chợ, nhưng còn làm bộ làm tịch với ai đây giữa nước non này, khi cái sự thèm lạt lên ngôi, không cưỡng lại nổi với nó, không thể chống lại sức quyến rũ chết người của miếng ăn. Nên nói chi thì nói, mất vệ sinh cũng được, bẩn thỉu cũng được. Đã chết ngay tại chỗ thằng nào con nào trong quán Hai Nhớp đâu mà phải dè chừng. Chúng tôi cứ an nhiên tự tại mà ăn, mà ghi sổ để đời, mà: “Thôi! Ra quán Hai Nhớp ăn bánh đúc hè!” Rứa là đi, rứa là xăng xái đến với thế giới riêng tư tự do thoái mái nhất dưới gầm trời này của chúng tôi để ăn, để chuyện trò đã đời và hát những bài hát cũng thèm thuồng không kém hành hạ kêu đòi. Để được còn thấy mình nguyên vẹn một niềm lạc thú yêu sống đúng nghĩa, dầu rằng cái nghĩa lý ấy đã bị giảm giá ít nhiều trước một dời đổi không do một ai trong chúng tôi được quyền định đoạt, kể cả số phận của chính mình.

      “Quán Hai Nhớp của chúng tôi” đình đám suốt một thời gian dài. Thương hiệu được bảo chứng không chỉ riêng cho khu vực công nhân mà còn danh giá tiếng tăm ra tới ngoài thị trấn An Tân phố chợ. Nó thỏa mãn xoa dịu những cơn khát thèm vô tội vạ của tuổi trẻ Mỏ đá Chu Lai những năm sau 1975 nhiều gian khó. Cả đất nước vừa thoát ra khỏi cuộc chiến hai thế kỷ ròng rã tên bay đạn lạc. Sự đói nghèo hiện hữu trên từng khuôn mặt người, trên từng ngóc ngách của đời sống. Phải gắng sức lên thôi. Ai cũng tự dặn lòng an ủi vậy. Thôi! Đã được hưởng cảnh đất nước yên bình, còn mong gì hơn nữa? Những người còn sống hôm nay là những hạt gạo trên sàng quý giá và phúc phận. Chút túng khó bước đầu là tất yếu của quy luật phát triển, rồi ra mọi sự sẽ tốt đẹp hơn. Bên cạnh hậu họa của tang thương mất mát là những đổ vỡ cần phải hàn gắn. Từng con người đứng trước những thách thức vượt quá sự chịu đựng mà chỉ có mỗi một lựa chọn hay nói cách khác là đã được cuộc sống lựa chọn giúp rồi, ta chỉ vậy mà an tâm đi tới trên con đường đã được hoạch định. Nuôi dưỡng niềm tin trong sáng ấy, chúng tôi đã cười đùa và ca hát, đã lăn lưng phơi mặt tưới từng giọt mồ hôi ấm nóng tình đời để được sống và làm việc, một công việc quá nhiều ý nghĩa cao quý và một cuộc sống ước mơ ở thì tương lai chờ đón. Nhờ vào tâm thế ấy và cũng mang tâm thế ấy chúng tôi bay trên đôi cánh tuổi trẻ mang nhiều dự phóng vào ngày mai sáng lạn. Cái “Ngày mai” đẹp đẽ huy hoàng cứ mải mốt chạy về phía xa xăm chẳng đếm xỉa gì đến những kẻ đeo đuổi theo nó trên một hành trình vô hạn định. Tuy vậy, nơi cái xó trời đất hoang vu này chỉ giàu có mỗi nắng mưa và gió, những ngọn gió từ biển thao thiết réo gào từng khi  biển động, đem cái lạnh thấu xương ban tặng hào phóng cho từng tấm hình hài trai trẻ, làm bừng thức cơn đói thèm đêm đêm không ngủ, đêm đêm lại rủ rê về những giấc mơ ngon, tiếng chép miệng giòn vang trong khuya vắng từ giường ngủ đồng đội cứ nhắc nhở gọi mời, trêu đùa vào bụng dạ sôi réo làm đầy lên những nỗi niềm buồn tủi.

      Lâu lâu, đói, thèm mà vô phương giải quyết vì đêm đã chìm vào tĩnh lặng. Tôi thầm thĩ ngâm mấy câu thơ tình cho đỡ nhớ cái ăn. Thằng Chỉnh càu nhàu trở mình, thằng Trọng lé mất ngủ đổ quáu:
- “Bớ xồm bớ lốp! Eng không có eng còn bày đẹt yêu! Kẹt họ!”
                                                                 
                                                              Tam Kỳ - khuya cuối đông
                                                                 Nguyễn Đức Dũng

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét